Tướng lĩnh của Hai Bà Trưng
Việt Bào Phạm Văn Bản
04/3/2025
Lễ Hai Bà Trưng ở Sài Gòn năm 1961
1. Địa Bàn Cuộc Chiến của Mã Viện
Sử Trung Hoa chỉ ghi các trận đánh của Mã Viện ở Giao Chỉ, mà cố ý bỏ quên các trận kinh hồn ở Hồ Động Đình, ở Khúc Giang… cũng như cố tình bỏ qua các trận đại bại ở nhiều nơi khác, nhất là những vùng đã bị sát nhập như Hồ Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam.
Đang khi đó, cho tới hôm nay khắp cõi Lĩnh Nam vẫn còn di tích hoạt động và những chiến thắng lẫy lừng của binh lực Đức Trưng Nữ Vương hay còn gọi là Hai Bà Trưng.
2. Đức Trưng Nữ Vương
Hai Bà Trưng hay hai chị em trong một gia đình có tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã khởi nghĩa chống giặc Trung Quốc vào năm 39 dương lịch, sau 150 năm dân nước Giao Chỉ của chúng ta bị nạn xâm lăng giặc Tàu từ năm 111, trước Công Nguyên.
Lễ kính Hai Bà thường được tổ chức trọng thể vào ngày 6 tháng 2 hằng năm. Theo sử sách thì Hai Bà là người vùng đất Mê Linh.
Bên ngoại của Hai Bà thuộc dòng Vua Hùng, và bên nội dòng dõi Lạc Tướng. Bà Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, cũng dòng Lạc Tướng quê ở miền Châu Diên.
Theo sách Việt Điện U Linh, tác gỉa Lý Tế Xuyên viết vào năm 1329 dl, thì Hai Bà họ Lạc, rồi “tự lập làm Việt Vương, đóng đô ở Châu Diên, và đổi họ là Trưng.”
Vì Thái thú Tô Định giết Thi Sách chồng Bà Trưng Trắc, nên người em Trưng Nhị đã cùng chị vùng lên đánh đuổi xâm lăng, rồi xưng vương – Trưng Nữ Vương, đóng đô tại đất Mê Linh năm 40 dl. Theo sách Dư Địa Chí của Đức Nguyễn Trãi viết vào năm 1438 dl, thì Trưng Nữ Vương đặt tên nước là Hùng Lạc.
a. Danh Xưng
Xưa nay Hai Bà thường dùng để chỉ hai chị em. Nhưng việc gọi chung Hai Bà, lại hàm ý là hai chị em cùng nhau nổi lên chống giặc và cùng làm vua.
Quả thực, hai chị em đứng lên Cứu Dân Cứu Nước tạo ra bao kỳ công sáng chói, rất đáng cho chúng ta khâm phục. Tuy nhiên theo sử ghi thì chỉ có Bà Trưng Trắc nhận quyền lãnh đạo cho toàn cuộc khởi nghĩa, và xưng vương, chớ không phải hai chị em làm vua.
Đang khi Bà Trưng Nhị, dù cho Ngài cũng là một bậc kỳ tài và tiếng tăm lẫy lừng, đã đóng góp công lao xuất chúng… nhưng Bà em này chỉ nhận tước là Bình Khôi Công Chúa. Và cùng với Bà Trưng Nhị, còn có nhiều vị Nữ Tướng khác cũng có những tước vị “Công Chúa,” như An Bình Công Chúa, Thánh Thiên Công Chúa, Gia Hưng Công Chúa, Vĩnh Huy Công Chúa…
Bởi thế, khi Bà chị được dân ta phong lên hàng lãnh đạo trong tổ chức cứu nước, thì chỉ có Bà chị là người chính thức đại diện cho toàn dân, là Trưng Nữ Vương.
Voi diễn hành nhân ngày Lễ Hai Bà Trưng 7 tháng 3 năm 1957 tại Sài Gòn
b. Lý Do Quật Khởi
Cho tới nay hầu hết các sử sách chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh thù chồng của Đức Trưng Nữ Vương, mà lãng quên hay coi nhẹ tinh thần Vì Dân Vì Nước của Ngài cùng với toàn dân thời ấy. Phía Trung Quốc cũng có mưu đồ làm hạ “lý do chiến đấu” của Phái Nữ hay Cô Gái Việt.
- Với lý do khởi nghĩa của Thánh Thiên Công Chúa thì Trung Quốc ghi là để trả thù cho cậu.
Cuộc khởi nghĩa của Cao Thị Liên thì ghi là rửa thù cho cha… và Bà Trưng bị xét đoán với lý do trả thù chồng… là nhằm coi nhẹ lý tưởng phục vụ đồng bào của các Cô Gái Việt.
Đang khi các sách của Trung Quốc như Hậu Hán Thư, Việt Kiều Thư, hay An Nam Chí Nguyên… dù vốn có thói xuyên tạc cố hữu... nhưng cũng phải thừa nhận “Vì Thái thú Giao Chỉ là Tô Định, lấy pháp luật mà ràng buộc, nên Trưng Trắc oán giận mà làm phản.”
Ngay tại điểm “làm phản” này, chúng ta nhận ngay ra mưu đồ ý giặc, theo thói thống trị tham tàn của người Hoa, đã xâm lăng, đã tự ý đặt luật để hà hiếp bóc lột dân Việt chúng ta… rồi lại gọi dân tộc chúng ta là làm phản.
- Sự kiện người nữ kiệt đất Mê Linh kết duyên với vị tướng tài vùng Châu Diên, và rồi Thi Sách bị Tô Định sát hại… đã cho chúng ta thấy sự kiện liên kết và tinh thần cải hóa dân tộc Tiên Rồng của lực lượng kháng chiến quân thời bấy giờ.
c. Tổ Chức & Lãnh Đạo
Trung Quốc đã thống trị đàn áp dân tộc Việt chúng ta trong suốt thời gian gần 150 năm. Cho dù là cùng dòng giõi Lạc Tướng với nhau, thì Trưng Nữ Vương cũng không thể “vì thù chồng” mà đột nhiên lại điều động được toàn dân vùng lên đánh đuổi lực lượng thiện chiến hùng hậu của quan thái thú Tô Định.
Chắc chắn Trưng Nữ Vương đã phải bí mật tổ chức Cứu Nước trong một thời gian dài trước đó. Nếu không, thì dưới sự kiềm chế khắp nơi của giặc, thêm vào phương tiện giao thông liên lạc tinh vi của giặc, thì làm sao mà Trưng Nữ Vương có thể huấn luyện, có thể điều động đầy đủ sức mạnh binh mã, để chỉ trong vài tháng mà đánh chiếm lại 65 thành từ tay giặc?
Sự kiện khởi nghĩa của các vị Anh Hùng Nghĩa Sĩ khắp nơi, thiết tưởng rằng trước đó các Ngài đã thi hành kế hoạch phân tán lực lượng, rồi các Ngài tổ chức một cách chu đáo, và có thể che mắt giặc?
Tiểu sử và hành tung của các vị Anh Hùng Nghĩa Sĩ cộng sự với Đức Trưng Nữ Vương bộc lộ cái tài tổ chức, bao gồm 4 yếu tố: chủ thuyết – cán bộ – tổ chức – thời sách, là điều kiện bất khả khuyết của một tổ chức cứu nước, cần có và phải có nếu muốn thành công?
Ngoài ra, các Ngài đã chứng tỏ tinh thần kháng chiến dành độc lập và tự do của dân tộc, cũng như đức tính kiên cường vì dân vì nước của Trưng Nữ Vương mà Người được tổ chức cử làm lãnh đạo.
Trong Hậu Hán Thư cũng ghi nhiều chi tiết nhấn mạnh tính tham tàn bạo ngược của Tô Định, nhưng người Hoa cũng lấy đó làm cái cớ mà đánh lạc hướng lý do khởi nghĩa của dân tộc ta. Sách chép rằng: “Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Châu Diên tên là Thi Sách, rất hùng dũng.”
Như vậy, sử sách giặc cũng phải công nhận đức Trưng Nữ Vương “rất hùng dũng.” Tinh thần kiên cường bất khuất của Ngài còn bộc lộ trong việc xuất quân xông trận, Ngài luôn luôn mặc chiến bào chỉnh tề, cỡi voi chiến trông rất xinh đẹp và uy linh, chớ không mặc đồ tang trắng khóc chồng theo kiểu nhi nữ thường tình.
Đối với sử sách Trung Quốc, lý do tham tàn quá đáng là họ nhằm làm cái cớ trong việc thất bại cai trị dân ta. Họ trút tội trên đầu những kẻ thất bại, để chạy tội cho toàn bộ mưu đồ dã tâm xâm lược của người Hoa. Họ làm tỉnh bơ, tỏ vẻ như thể là các dân địa phương luôn luôn vui sướng với ách thống trị của họ, và họ xem dân ta chỉ chống đối với bọn quan chức tham nhũng mà thôi.
d. Nhân Sự Quật Khởi
Cho dù họ cố tình che dấu, nhưng sử sách Trung Quốc cũng phải ghi nhận dân Việt có nhiều Anh Hùng Nghĩa Sĩ đã biết rành rẽ về phương thức tổ chức phục quốc.
Căn cứ trên thần phả và di tích, hiện nay chúng ta có tên tuổi và tiểu sử của 162 vị danh tướng thời Đức Trưng Nữ Vương. Đã có nhiều vị tự mình tổ chức dân quân trước khi về hợp tác với lực lượng kháng chiến của Đức Trưng Nữ Vương.
Khi Trưng Nữ Vương khởi nghĩa, đã có Bà Lê Chân chẳng những đến từ Hải Dương, mà còn đem theo cả một đội chiến thuyền. Thánh Thiên Công Chúa, trước khi về với Trưng Nữ Vương, cũng đã có binh tướng riêng, và đã có lần đánh bại quân Tô Định.
Chúng ta cũng còn có Bà Lê Thị Hoa lập chiến khu tại vùng Nga Sơn ở Thanh Hóa. Bà Trần Vĩnh Huy khởi binh ở Cổ Châu, gần Hà Nội ngày nay.
Tiếp đến là Nam Thành Vương Trần Công Minh, Long Biên Công Đặng Dương Hoán, Liệt nữ Trần Thiếu Lan, và nhiều vị anh hùng hào kiệt đã từng làm cho giặc phương Bắc ăn ngủ không yên từ lâu trước khi Đức Trưng Nữ Vương ra quân.
Các làng xã thôn ấp và châu động cũng sẵn sàng chuẩn bị dưới nhiều hình thức, nhiều tổ chức phục quốc cũng ẩn danh trong những môn phái võ thuật…
e. Địa Bàn Hoạt Động
Cũng theo sách sử Trung Quốc mà sau này các nhà chép sử Việt Nam chép lại, thì chỉ ghi phạm vi ảnh hưởng của Đức Trưng Nữ Vương trong khu vực quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố. Đây chỉ là vùng đất gồm từ Thừa Thiên ra hết Bắc Phần Việt Nam, và một phần tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc hiện nay.
Nhưng còn nhiều dấu tích chứng tỏ nghĩa quân của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh Nam. Sau 150 năm Bắc thuộc, các đội nghĩa quân của Đức Trưng Nữ Vương đã đánh chiếm lại toàn thể vùng Lĩnh Nam khắp sáu quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Tượng Quận, Quế Lâm và Nam Hải.
Cuộc khởi nghĩa trên một địa bàn rộng lớn và thần tốc này chứng tỏ dân Lạc Việt đã có truyền thống đoàn kết, đã có ý thức độc lập tự chủ, đã có lực lượng và phương tiện chiến đấu hữu hiệu hùng mạnh, đã có đời sống cao về vật chất lẫn tinh thần.
Các chiến tích của nghĩa quân Việt tại Hoa Nam chẳng những được các thần phả ghi chép, mà sách ngoại sử của Trung Hoa cũng nhắc đến, mà hôm nay, gần qua 2000 năm mà vẫn còn nhiều di tích chiến trận, nhiều đền thờ Đức Trưng Nữ Vương cùng các danh tướng đương thời, tại Hồ Động Đình cũng như tại nhiều nơi trong các tỉnh Hồ Nam, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, và đảo Hải Nam.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, viết năm 1479 dl, thì ở Phiên Ngung, thủ đô của Triệu Đà cũng có đền thờ Đức Trưng Nữ Vương. Và gần đây, thời triều Tây Sơn năm 1793 dl, khi đặc sứ Ngô Thời Nhiệm cùng phái đoàn đi ngang phía nam Hồ Động Đình, đã đến viếng thăm đền thờ Đức Trưng Nữ Vương, và ghi nhận: quân Đức Trưng Nữ Vương đã đánh với quân Mã Viện ở Hồ Nam.
g. Một Số Chiến Tích
Tại Khúc Giang (Quảng Đông) hiện nay còn đền thờ Nữ tướng của Đức Trưng Nữ Vương, là Đàm Ngọc Nga, tước Nguyệt Điện Công Chúa. Tại đây còn nhiều di tích trong trận chiến long trời lở đất của Bà với quân Mã Viện.
Cũng tại Khúc Giang, còn có đền thờ Nữ tướng Trần Thị Phương Châu, tước Nam Hải Công Chúa. Bà tuẫn quốc tại đây vào đầu cuộc khởi nghĩa năm 39 dl. Sử Việt có ghi vào năm 1288 dl, Vua Trần Nhân Tôn đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc Giang trùng tu đền thờ Ngài.
Tại Quảng Đông và Quảng Tây có nhiều đền thờ Nữ tướng Nguyễn Thánh Thiên, tước Nam Hải Công Chúa. Và hy sinh tại vùng này vào năm 42 dl.
Tại dọc bờ biển Quảng Đông, Phúc Kiến, và đảo Hải Nam có nhiều đền thờ Nữ tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng Công Chúa. Dân trong vùng này đã tôn Bà là Giao Long Tiên Nữ giáng trần vì Bà rất hiển linh.
Tại vùng Hồ Động Đình và thủ phủ Trường Sa của tỉnh Hồ Nam, cho đến ngày nay người dân địa phương vẫn còn nhắc nhở trận đánh lẫy lừng của Nữ tướng Phật Nguyệt và đền thờ Ngài.
Tại cửa Thẩm Giang chảy vào Hồ Động Đình, còn miếu thờ Nữ tướng Trần Thiếu Lan, và cả ngàn năm qua, cứ mỗi lần sứ thần nước ta đi ngang qua là đều vào tế lễ Ngài. Hiện nay cũng còn có ngôi mộ tên Ngài.
Chúng ta cũng còn có nhiều di tích của các trận đánh lớn, như trận chiếm giữ thủ phủ Trường Sa của Hồ Nam; trận đánh kinh hồn của Nữ tướng Phật Nguyệt đã chiến thắng Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ở Hồ Động Đình; trận thủy chiến lẫy lừng của Nữ tướng Trần Quốc ở Uất Lâm; trận đánh thần kỳ của Vĩnh Hoa Công Chúa, dẹp tan Đại tướng giặc Ngô Hán ở Độ Khẩu, Vân Nam, Khúc Giang, Hải Nam…
Tất cả đều chứng tỏ binh lực của Đức Trưng Nữ Vương đã tung hoành khắp vùng Lĩnh Nam, và đã có lúc Đức Trưng Nữ Vương xưng danh Hoàng Đế toàn thể Lĩnh Nam.
3. Kết Luận
Suốt dòng lịch sử ngàn năm chống Hán hóa, thiết tưởng đã có bao ngàn cuộc khởi nghĩa chống Trung Quốc, đã có bao trăm ngàn Anh Hùng Nghĩa Sĩ bị giặc tàn sát và dấu nhẹm.
Mặc dù không được ghi trong sử sách, nhưng dòng máu kiêu hùng của Tổ Tiên vẫn đang luân lưu trong mỗi người chúng ta. Là con cháu, chúng ta có bổn phận làm sáng tỏ công đức ngàn đời của Tổ Tiên.
Vì vậy, Đức Trưng Nữ Vương chẳng những đại diện cho thời của Ngài, mà còn biểu trưng cho toàn thể Anh Hùng Nghĩa Sĩ Việt Nam vùng lên chống giặc cứu nước. Đó cũng là bổn phận và là trách nhiệm của những người Thanh Niên Việt Nam thời đại ngày nay phải ắt có và đủ để kiện toàn tổ chức: chủ thuyết, cán bộ, tổ chức, thời sách... Học Thuyết Tiên Rồng – Cán Bộ Đồng Bào – Tổ Chức Hoa Tiên Rồng – Sách Lược Thời Đại Tín Nghiệp... thì mới mong thành công, mới mong thóat cảnh “Đồng Trụ Chiết Giao Chỉ Diệt” trong mưu đồ “một vành đai một con đường của giặc Tàu, hay mua đất của Hán Vũ Đế.
Việt Bào Phạm Văn Bản
Phụ chú:
Tướng lĩnh của Hai Bà Trưng
Theo nhiều nguồn tài liệu, thì hai bà có đến hơn 70 tướng lĩnh, trong đó có nhiều thủ lĩnh các nghĩa quân địa phương, hiện còn nhiều đền thờ lập Thành hoàng làng ở miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc. Đặc biệt, trong số này có nhiều nữ tướng lĩnh34 .
Thánh Thiên - Nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa ở Yên Dũng, Bắc Đái - Bắc Giang. Tài kiêm văn võ, được Trưng Vương phong làm Thánh Thiên công chúa, giữ chức Bình Ngô đại tướng quân, thống lĩnh binh mã trấn thủ vùng Nam Hải (Hải Nam). Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Ninh (Việt Nam) và ở cả hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc.
Lê Chân - Nữ tướng miền biển: Khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, được Trưng Vương phong làm Đông Triều công chúa, giữ chức Trấn Đông đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nam Hải. Hiện có đền Nghè ở An Biên, Hải Phòng thờ bà.
Vũ Thị Thục: Khởi nghĩa ở Tiên La (Thái Bình), được Trưng Vương phong làm Bát Nạn đại tướng, Uy Viễn đại tướng quân, Trinh Thục công chúa. Hiện có đền thờ ở Phượng Lâu (Phù Ninh, Phú Thọ) và Tiên La (Hưng Hà, Thái Bình).
Vương Thị Tiên: được Trưng Vương phong làm Ngọc Quang công chúa, được thờ ở đền Sầy và miếu thờ ở xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Tương truyền, bà có công giúp Hai Bà Trưng đánh giặc và gieo mình tự vẫn tại xã Hữu Bị, huyện Mỹ Lộc, phủ Thiên Trường, Nam Định. Sau này đến đời vua Lý Thái Tông có năm hạn hán lớn, nhà vua lập đàn cầu mưa, bà còn hiển linh giúp dân chống hạn. Nhà vua giáng chỉ cho dân địa phương thờ phụng theo nghi lễ đầy đủ hơn và tặng thêm hai chữ trong duệ hiệu, thành: Ngọc Quang Thiên Hương công chúa.35
Ba vị tướng Đào Chiêu Hiển, Đào Đô Thống và Đào Tam Lang của Hai Bà Trưng: Hi sinh trong trận Bồ Lăng, đánh với quân Hán tại khu vực nay là ngã ba sông Trường Giang và Ô Giang, thuộc địa phận thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc. Hiện ở đây có miếu thờ. Để tưởng nhớ công ơn của ba anh em họ Đào, nhân dân Đa Tốn đã lập miếu thờ (Đào Đô Thống thờ ở miếu Sén Tóc, thôn Ngọc Động. Đào Chiêu Hiển thờ ở Nghè Ông Hai, thôn Lê Xá và Đào Tam Lang thờ ở nghè cũ sau chuyển về nghè Lê Xá). Về sau, từ thế kỷ XVII trở đi, dân làng Ngọc Động và Lê Xá đã thờ ba ông làm thành hoàng làng 36 .
Nàng Nội - Nữ tướng vùng Bạch Hạc: Khởi nghĩa ở xã Bạch Hạc (thành phố Việt Trì, Phú Thọ ngày nay), được Trưng Vương phong làm Nhập Nội Bạch Hạc Thủy công chúa. Hiện thành phố Việt Trì có đền thờ bà.
Lê Thị Hoa - Nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa ở Nga Sơn (Thanh Hóa), được Trưng Vương phong làm Nga Sơn công chúa, giữ chức Bình Nam đại tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Cửu Chân. Hiện có đền thờ ở Nga Sơn.
Hồ Đề - Phó nguyên soái: Khởi nghĩa ở động Lão Mai (Thái Nguyên), được Trưng Vương phong làm Đề Nương công chúa, giữ chức Phó nguyên soái, Trấn Viễn đại tướng quân. Đình Đông Cao, Yên Lập (Phú Thọ) thờ Hồ Đề.
Xuân Nương, chồng là Thi Bằng - em trai Thi Sách, trưởng quản quân cơ: Khởi nghĩa ở Tam Nông (Phú Thọ), được Trưng Vương phong làm Đông Cung công chúa, giữ chức Nhập Nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở Hưng Nha (Tam Nông), Phú Thọ.
Nàng Quỳnh và Nàng Quế - Tiên Phong phó tướng: Khởi nghĩa ở châu Đại Man (Tuyên Quang), được Trưng Vương phong làm Nghi Hòa công chúa, giữ chức Hổ Oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Nhật Nam trấn thủ vùng bắc Nam Hải. Hiện ở Tuyên Quang còn miếu thờ hai vị nữ anh hùng.
Đàm Ngọc Nga - Tiền Đạo tả tướng: Khởi nghĩa ở Thanh Thuỷ, Thanh Sơn, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Nguyệt Điện Tế Thế công chúa, giữ chức Tiền Đạo tả tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Nam Hải. Hiện có đền thờ ở Khúc Giang (nay thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc).
Trần Thị Phương Châu: Tuẫn tiết ở Khúc Giang (nay thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) năm 39 sau Công nguyên, được Trưng Vương phong làm Nam Hải công chúa. Hiện có đền thờ ở Khúc Giang. Sử cũ có chép vào năm 1288, vua Trần Nhân Tông đã sai Đại thần Đoàn Nhữ Hải qua Khúc Giang trùng tu đền thờ bà.
Đinh Bạch Nương và Đinh Tĩnh Nương: Quê ở động Hoa Lư (Ninh Bình), theo Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, được thờ ở đình Đông Ba thuộc thôn Đông Ba, xã Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Thiều Hoa - Tiên Phong nữ tướng: Khởi nghĩa ở Tam Thanh, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Đông Cung công chúa, giữ chức Tiên Phong hữu tướng. Hiện ở xã Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ có miếu thờ bà.
Quách A - Tiên Phong tả tướng: Khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Khâu Ni công chúa, giữ chức Tiên Phong tả tướng, tổng trấn Luy Lâu. Hiện có đền thờ ở trang Nhật Chiêu (Phú Thọ).
Vĩnh Huy - Nội Thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Tiên Nha (Phú Thọ), được Trưng Vương phong làm Vĩnh Hoa công chúa, giữ chức Nội Thị tướng quân. Bà có trận đánh thần kỳ dẹp tan quân của đại tướng nhà Hán là Ngô Hán ở các vùng Độ Khẩu (nay thuộc Vân Nam), Khúc Giang (nay thuộc Quảng Đông) và đảo Hải Nam của Trung Quốc ngày nay. Đình Nghênh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc thờ Vĩnh Huy.
Lê Ngọc Trinh - Đại tướng: Khởi nghĩa ở Lũng Ngòi, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, được Trưng Vương phong làm Ngọc Phượng công chúa, giữ chức Chinh Thảo đại tướng quân, phó thống lĩnh đạo quân Quế Lâm. Hiện có miếu thờ ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Lê Thị Lan - Tướng quân: Khởi nghĩa ở Đường Lâm, Sơn Tây, được Trưng Vương phong làm Nhu Mẫn công chúa, giữ chức Trấn Tây tướng quân, phó thống lĩnh đạo binh Hán Trung. Hiện ở Hạ Hoà, Vĩnh Phúc có miếu thờ bà.
Phật Nguyệt - Tả tướng thuỷ quân: Khởi nghĩa ở Thanh Ba, Phú Thọ, được Trưng Vương phong làm Phật Nguyệt công chúa, giữ chức Thao Giang Thượng tả tướng thuỷ quân, Chinh Bắc đại tướng quân, tổng trấn khu hồ Động Đình - Trường Sa. Bà hình như không được ghi vào sử Việt Nam mà lại được ghi vào sử Trung Quốc. Bà có trận đánh kinh hồn chiến thắng Mã Viện, Lưu Long và Đoàn Chí ở hồ Động Đình (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Hiện di tích về bà còn rất nhiều: tại chùa Kiến Quốc thuộc thành phố Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam), tại ngôi chùa trên núi Thiên Đài trong hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh. Bà là nữ tướng gây kinh hoàng cho nhà Hán nhất.
Trần Thiếu Lan: Hiện có miếu thờ tại cửa Thẩm Giang chảy vào hồ Động Đình (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc). Cả ngàn năm qua, mỗi lần sứ thần của Việt Nam đi ngang qua đều vào tế lễ bà. Hiện nay cũng còn một ngôi mộ mang tên bà.
Phương Dung: Khởi nghĩa ở Lang Tài (Bắc Ninh), được Trưng Vương phong làm Đăng Châu công chúa, giữ chức Trấn Nam đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh Giao Chỉ.
Trần Năng - Trưởng lĩnh trung quân: Khởi nghĩa ở Thượng Hồng (Hải Dương), được Trưng Vương phong làm Hoàng công chúa, Vũ Kỵ đại tướng quân, giữ chức Trưởng lĩnh trung quân. Hiện ở Yên Lãng, Vĩnh Phúc có đền thờ bà.
Trần Quốc hay nàng Quốc - Trung Dũng đại tướng quân: Khởi nghĩa ở Gia Lâm, Hà Nội, được Trưng Vương phong làm Gia Hưng công chúa, Trung Dũng đại tướng quân, giữ chức Đô đốc, trưởng quản thủy quân trấn bắc Nam Hải. Bà có trận thuỷ chiến lẫy lừng ở quận Uất Lâm (nay thuộc tỉnh Quảng Tây). Hiện ở Hoàng Xá, Kiêu Kỵ, Gia Lâm (Việt Nam) và cả dọc bờ biển các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam của Trung Quốc có nhiều đền thờ nàng Quốc. Dân ở các vùng này đã tôn bà là Giao Long tiên nữ giáng trần vì bà rất hiển linh.
Tam Nương - Tả Đạo tướng quân: Ba chị em Đạm Nương, Hồng Nương và Thanh Nương. Trưng Vương phong Hồng Nương làm An Bình công chúa, Thanh Nương làm Bình Xuyên công chúa, Đạm Nương làm Quất Lưu công chúa, giao cho chức Kỵ binh Lĩnh Nam. Đình Quất Lưu, Vĩnh Phúc thờ Tam Nương.
Quý Lan - Nội Thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Lũng Động, Chí Linh (Hải Dương), được Trưng Vương phong làm An Bình công chúa, giữ chức Nội Thị tướng quân (Lễ bộ Thượng thư). Hiện ở Liễu Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc có đền thờ Quý Lan.
Bà Chúa Bầu: Khởi nghĩa ở vùng Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Hiện ở Lập Thạch, Sơn Dương có đền thờ tưởng nhớ công lao của bà.
Sa Giang: quê Trường Sa, người Hán, sang giúp Lĩnh Nam, được Trưng Vương phong làm Lĩnh Nam công chúa. Bà là một nhân vật lịch sử. Hiện ở ngoại ô huyện Phong Đô tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) có đền thờ bà.
Đô Thiên: người Hán, ứng nghĩa theo Lĩnh Nam, được Trưng Vương phong làm Động Đình công, giữ chức Trung Nghĩa đại tướng quân, thống lĩnh đạo quân Hán Trung, tổng trấn Trường Sa. Hiện vùng Lưỡng Quảng của Trung Quốc có rất nhiều miếu, đền thờ ông.
Phùng Thị Chính: Tuấn Xuyên, Vạn Thắng, Ba Vì, được Trưng Vương Phong làm "Trưởng nội thị tướng quân", nổi tiếng với trận đánh ở Lãng Bạc, sinh con giữa trận chiến, một tay ôm con, một tay giết giặc. Có đền thờ bà tại thôn Tuấn Xuyên, xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, TP. Hà Nội
Ngoài ra còn có các thủ lĩnh người Tày, Nùng và Choang (Quảng Tây) lãnh đạo nhân dân tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Nguồn: https://nguoikesu.com/?view=article&id=6485:hai-ba-trung
Không có nhận xét nào