VIỆT NAM – FDI SAU HƠN BA THẬP KỶ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG
Nguyễn Quảng Hà, Lê Phương Thảo, Nguyễn Trang Minh, Võ Minh Quân, Trần Thị Thảo
Preprint DOI: https://doi.org/10.31219/osf.io/z5x3n
Ngày 15 tháng 5 năm 2022
Nhìn lại một số sự kiện nổi bật từ khi Việt Nam nhận dòng vốn FDI
Những sự kiện tích cực
Cuối thập kỷ 80, Việt Nam đã đưa ra một quyết định mang tính bước ngoặt. Một bước ngoặt lớn với nền kinh tế nói chung và với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Đó chính là chủ trương mở cửa, hội nhập kinh tế. Chủ trương bắt đầu bằng việc thông qua Luật Đầu tư Nước ngoài vào năm 1987 và tiếp tục với các bản hiệp ước song phương và đa phương với các nước khác và tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Có thể nói, trong suốt quá trình 34
năm hội nhập, FDI mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng kéo theo cho chúng ta những thách thức. Điển hình như sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN vào năm 1995 đã góp phần làm tăng nguồn vốn FDI rót vào kinh tế nước ta. ASEAN (Association of South East Asian Nations) là một tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, được thành lập ngày 8/8/1967. Ngày 28/7/1995, Việt Nam khi chính thức gia nhập, trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN.
Đồ thị 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1988-2004
Nguồn: Tổng cục thống kê (2004)
Có thể thấy từ đồ thị bên trên, thời điểm Việt Nam đạt đỉnh cao thu hút FDI trong giai đoạn này là năm 1996, ngay sau khi Việt Nam gia nhập Asean. Cho tới hiện tại ASEAN vẫn đang hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng. Trong mối quan hệ FDI, ASEAN là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài rất lớn đối với Việt Nam, đồng thời còn là cầu nối nhiều khoản đầu tư của các công ty đa
quốc gia có trụ sở tại ASEAN. Điển hình các nước có vốn đầu tư lớn vào Việt Nam là thành viên của ASEAN gồm: Brunei, Thái Lan, Singapore,... Đặc biệt trong 3 tháng đầu năm 2022, ...
Singapore đầu tư 626,6 triệu USD, chiếm 19,5%; Trung Quốc 379,5 triệu USD, chiếm 11,8%; Đài Loan 219,9 triệu USD, chiếm 6,8%; Đặc khu hành chính Hong Kong (Trung Quốc) 191,7 triệu USD, chiếm 6% (BBT, 2022).
Bên cạnh việc gia nhập ASEAN, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO cũng là một sự kiện lớn, là dấu mốc đánh dấu sự bứt phá trong thu hút vốn đầu tư FDI. WTO (World Trade Organization) - Tổ chức Thương mại thế giới được thành lập ngày 1/1/1995 với mục đích thiết lập và duy trì nền thương mại hoàn toàn tự do, minh bạch. Ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thực gia nhập và trở thành thành viên thứ 150 WTO đánh dấu sự khởi sắc quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Gia nhập WTO đã góp phần không nhỏ cho việc huy động vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Năm 2007 đón nhận sự bùng nổ khi dòng vốn FDI đăng kí vào Việt Nam tăng từ 21,35 tỷ USD lên đến 71,73 USD chỉ riêng năm 2008, dòng vốn FDI năm 2007 tương đương với 9,4% GDP tăng gấp 2,5 lần dòng vốn vào năm 2006 (Lâm, 2012).
Thêm vào đó, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2020 đánh dấu cột mốc quan trọng trên chặng đường 30 năm hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu EU, mở ra một giai đoạn mới đầy triển vọng cho mối quan hệ đối tác toàn diện đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn (A.N, 2021).
Về kết quả thu hút đầu tư từ EU, báo cáo nêu, tính đến tháng 9 năm 2021, EU có 2.242 dự án
(tăng 164 dự án so với cùng kỳ năm 2020) từ 26/27 quốc gia thuộc EU còn hiệu lực tại Việt Nam với vốn đầu tư đăng ký đạt 22,24 tỷ USD (tăng 483 triệu USD so với cùng kỳ năm 2020), chiếm 5,58% tổng vốn đầu tư đăng ký của các nước và vùng lãnh thổ vào Việt Nam và chiếm 6,57% số dự án.
Một số ảnh hưởng tiêu cực
Tuy nhiên, bên cạnh những sự kiện tích cực cũng không tránh khỏi những sự kiện tiêu cực ảnh hưởng xấu đên lượng đầu tư vào Việt Nam. Đầu tiên không thể không nhắc đến sự kiện khủng hoảng kinh tế năm 2008. Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu với việc Ngân hàng Lehman Brothers Holdings (Mỹ) nộp đơn xin phá sản vào ngày 15/9/2008 sau 158 năm hoạt động. Cùng ngày, một tập đoàn ngân hàng lớn khác của Mỹ là Merrill Lynch tuyên bố sáp nhập với Bank of America do thua lỗ từ cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp nhà ở cũng tại Mỹ. Cuộc khủng hoảng khiến nền kinh tế toàn cầu thất thoát 4.500 tỷ USD vào năm 2009. Nước Mỹ, nền kinh tế số 1 thế giới lâm vào suy thoái (Minh, 2018). Kinh tế Việt Nam không tránh khỏi ảnh hưởng, đặc biệt với nguồn vốn FDI, giai đoạn 2009-2014 giảm sâu. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), FDI vào các nước đang phát triển đạt khoảng 500 tỉ USD (năm 2008), giảm xuống chỉ còn khoảng 400 tỉ USD (năm 2009). Việt Nam chiếm khoảng 1,5-2% lượng vốn FDI toàn cầu. Năm 2009, FDI vào Việt Nam thấp hơn do tất cả các nước đầu tư lớn đều rơi vào suy thoái (BBT, 2010).
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của vụ việc giàn khoan 981 vào năm 2014 cũng không nhỏ. Ngày 1/5/2014 Việt Nam xác nhận Trung Quốc cho đặt giàn khoan di động 981 tại Biển Đông (nơi được coi là một tuyến đường thiết yếu cho dầu, tài nguyên, và hàng hoá thương mại vận chuyển từ Trung Cận Đông tới Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, ….) để thăm dò dầu khí. Nhiều chuyên gia nhận định rằng đây là một cảnh báo đối với nền kinh tế của Việt Nam khi Việt Nam vẫn kiên định không thoả hiệp về vấn đề Biển Đông và “gác tranh chấp, cùng nhau khai thác” như ý muốn của Trung Quốc (Thái, 2014).
Căng thẳng ở Biển Đông chưa được tháo gỡ những vẫn có thể thấy được nó đã ảnh
hưởng đến nền kinh tế Việt Nam ngày một rõ. Các ảnh hưởng này trải khắp các phương
diện trong quan hệ kinh tế, từ đầu tư, các dự án tổng thầu, thương mại và du lịch. Khối
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 18% GDP, đạt kim ngạch xuất khẩu 81 tỷ USD (chiếm 3/5 tổng xuất khẩu năm 2013) và xuất siêu gần 14 tỷ USD (Thái, 2014). Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới giảm mạnh (không chỉ riêng vốn từ Trung Quốc), hay tệ hơn là các dự án FDI dần rời khỏi Việt Nam do lo ngại an ninh, sẽ gây tổn thất lớn cho nền kinh tế. Sau sự kiện giàn khoan 981 thì nền kinh tế nội địa nước ta cũng có phần bị ảnh hưởng, sản xuất bị gián đoạn đồng nghĩa với việc niềm tin của những nhà đầu tư
nước ngoài cũng lung lay theo.
Mới đây, đại dịch covid-19 bùng nổ trên toàn thế giới đã ảnh hướng tới mọi khía cạnh đời sống, kinh tế, xã hội của tất cả các quốc nói chung và Việt Nam nói riêng. Dịch bệnh đã khiến cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất bị trì hoãn, thiếu nguồn lực do giãn cách xã hội, …. Những nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng có thể thấy rõ được ảnh hưởng mà dịch covid đã tác động rất xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Thế nhưng hiện nay Việt Nam đang kiểm soát dịch bệnh vô cùng hiệu quả và sẽ sớm trở lại là điểm thu hút các nhà đầu tư. Mặc dù dòng vốn FDI toàn cầu chưa có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, nhưng trong 9 tháng đầu năm 2021 bất chấp những khó khăn do đại dịch, các nhà đầu tư vẫn tiếp tục đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết trong 8 tháng đầu năm 2021, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 14 tỷ USD, chỉ thấp hơn 2% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong khi vốn FDI thực hiện đạt 11,7 tỷ USD, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong tháng 8/2021, thời gian mà dịch COVID-19 đang diễn biến rất phức tạp, Việt Nam thu hút được 2,4 tỷ USD vốn FDI đăng ký, tăng 65% so với tháng 7. Tính đến 20/12/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2020. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt 19,74 tỷ USD (BBT, 2021).
Thực trạng về dòng vốn FDI tại Việt Nam ngày nay
Đặc điểm của dòng vốn FDI tại Việt Nam
Thu nhập mà chủ đầu tư thu được mang tính chất là thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức. Loại hình thu nhập này phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả kinh doanh.
Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định là cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Đồng thời, lợi nhuận và rủi ro của các nhà đầu tư cũng tương ứng với tỷ lệ này. Chủ đầu tư có quyền tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Bên cạnh đó, họ còn được tự do lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư… Vì thế có thể đưa ra những quyết định phù hợp nhất mang lại lợi nhuận cao.
Để được tham gia kiểm soát hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư; nhà đầu tư phải góp đủ số vốn tối thiểu, tùy theo quy định của mỗi quốc gia (Linh, 2022).
FDI đóng vai trò gì tại Việt Nam?
Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển
FDI là nguồn vốn bổ sung quan cho chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao. Đặc biệt là với những nước đang phát triển như Việt Nam để có được sự tăng trưởng kinh tế cao, chúng ta không chỉ dựa vào tích lũy trong nước mà còn phải dựa vào nguồn vốn tích lũy từ bên ngoài trong đó có FDI.
Giải quyết vấn đề việc làm. Góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động
Tính đến tháng 6 năm 2018, theo Bộ Kế hoạch và đầu tư doanh nghiệp có vốn FDI đang tạo việc làm cho hơn 3,6 triệu lao động trực tiếp và khoảng 6 triệu lao động gián tiếp đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nâng cao năng suất lao động và trình độ quản lý
Khi đầu tư FDI vào Việt Nam, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ xây dựng các dây chuyển sản xuất tại nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này sẽ cho phép các nước đang
phát triển tiếp cận công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như ý thức lao động công nghiệp của đội ngũ nhân công trong nước.
Tạo ra sự cạnh tranh tích cực cho các doanh nghiệp trong nước
Chính sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, bắt buộc các doanh nghiệp nội địa không ngừng đổi mới công nghệ, cải thiện sản xuất, gia tăng tìm hiểu thị trường xuất khẩu, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Những thành tựu đạt được
Sau 30 năm, có thể khẳng định, FDI đã trở thành khu vực kinh tế quan trọng của Việt Nam. Đóng góp của khu vực FDI đối với nền kinh tế nước ta có thể kể ra ở những điểm nhấn sau:
Đầu tiên, với hơn 183 tỷ USD đầu tư vào Việt Nam, được triển khai thực hiện trong hầu hết các ngành nghề và lĩnh vực của nền kinh tế, khu vực FDI góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành những ngành công nghiệp chủ lực như: viễn thông, dầu khí, điện tử, hóa chất, thép, ôtô, xe máy, công nghệ thông tin, da giày, dệt may, chế biến nông sản thực phẩm…
FDI đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Đến nay, khu vực FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trên 72% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần giảm đáng kể tỷ lệ nhập siêu. Trong 8 tháng năm 2018, xuất khẩu của khu vực FDI đạt 108,79 tỷ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2017 và chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu, xuất siêu đạt 17,9 tỷ USD.
Khu vực FDI góp phần tạo khoảng 3,5 triệu việc làm trực tiếp và hơn 4 triệu lao động gián tiếp. Quá trình làm việc trong các doanh nghiệp FDI, người lao động đã trưởng thành trên nhiều mặt: tác phong công nghiệp, văn hóa doanh nghiệp, trình độ chuyên môn và quản lý, trình độ ngoại ngữ... Bên cạnh đó, đầu tư của các doanh nghiệp FDI đã trực tiếp và gián tiếp đóng góp chuyển giao và phát triển công nghệ, tham gia và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa tại Việt
Nam. Hiện nay, 58% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, tạo ra 50% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ chốt của nền kinh tế như dầu khí, điện tử, viễn thông…
Thu hút FDI còn góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời, tạo ra những áp lực để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thu hút FDI và hội nhập là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát
triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp luật. Đến nay, hệ thống hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam đã có những phát triển ấn tượng, hệ thống đường bộ, đường thủy, đường hàng không với các cảng biển và sân bay hiện đại tầm cỡ khu vực đã
được xây dựng, đáp ứng nhu cầu giao thương, đầu tư phát triển đất nước.
Cũng không thể không kể đến tác động lan tỏa tới các doanh nghiệp trong nước từ FDI. Dù chưa được như kỳ vọng nhưng nhiều doanh nghiệp Việt đã hưởng lợi trực tiếp khi liên
doanh, liên kết với các doanh nghiệp FDI, tham gia vào chuỗi sản xuất hàng hóa xuất khẩu, đổi mới công nghệ.
Như vậy, 30 năm qua, kể cả giai đoạn khủng hoảng kinh tế, FDI luôn là khu vực phát triển năng động, có tác động thúc đẩy chuyển dịch các ngành kinh tế của nước ta. Nói như
chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu, khu vực FDI đã góp phần đưa Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, giúp Việt Nam phát triển với tầm vóc cao hơn, đặc biệt trong giai đoạn CMCN 4.0 (BTT, 2018).
Những hạn chế còn tồn tại
Cơ cấu đầu tư bất hợp lý:
Mục đích cơ bản trong kêu gọi nguồn vốn FDI của Việt Nam là vốn, công nghệ… nhằm tạo cho nền kinh tế phát triển được cân đối và hiện đại. Còn đối với nhà đầu tư nước ngoài là lợi nhuận, nên việc họ đưa vốn vào những nơi mà ta cần là rất ít, vì đó là những lĩnh vực ít mang lại khả năng sinh lợi nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro. Kết quả là dòng vốn FDI đã gây mất cân đối cho nền kinh tế. Sự mất cân đối này được thể hiện trên 3 góc độ: Sự mất cân đối trong FDI vào ba ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; sự mất cân đối trong việc đầu tư vào nội bộ mỗi ngành; sự mất hợp lý trong cơ cấu đầu tư vùng (Hương, 2022).
Doanh thu tăng hàng ngàn tỷ vẫn báo lỗ:
Báo cáo tổng hợp, phân tích báo cáo tài chính năm 2020 của hơn 25.100 doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài (FDI) đến từ 30 quốc gia, vùng lãnh thổ đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam vừa được Bộ Tài chính gửi tới Thủ tướng ghi nhận hơn 14.100 doanh nghiệp FDI khai báo lỗ, chiếm 56% tổng số doanh nghiệp. Tổng số lỗ của các doanh nghiệp lên tới 151.000 tỉ đồng.
Trong khi đó, tổng tài sản của các doanh nghiệp khai báo lỗ này vẫn đạt khoảng 2,47
triệu tỉ đồng, tăng 22% so với năm 2019. Doanh thu của các doanh nghiệp FDI đang báo lỗ trong năm 2020 đạt 1,07 triệu tỉ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế đến hết năm 2020, có hơn 16.100 doanh nghiệp FDI báo lỗ trong báo cáo tài
chính gửi tới sở tài chính các địa phương, chiếm khoảng 64% doanh nghiệp khai báo.
Tổng giá trị lỗ lũy kế của các doanh nghiệp FDI đến hết năm 2020 lên tới hơn 623.000 tỉ đồng, bằng 44% vốn đầu tư của các doanh nghiệp. Số doanh nghiệp FDI báo lỗ mất vốn là 4.520
doanh nghiệp, chiếm 16,88% tổng số doanh nghiệp đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam có báo
cáo.
Trong đó, doanh thu của Công ty Airpay đạt 4.555 tỉ đồng, Công ty Shopee đạt 2.329 tỉ đồng, tổng tài sản của 2 doanh nghiệp này tại Việt Nam cũng ghi nhận tăng lần lượt 1.201 tỉ đồng và 1.782 tỉ đồng.
Đây là 2 doanh nghiệp FDI có quy mô vốn đầu tư lớn, doanh thu tăng mạnh, có sự mở rộng về đầu tư nhưng vẫn báo lỗ, trong đó Công ty TNHH Shopee báo lỗ mất vốn. Trong năm 2020, Công ty TNHH Shopee nộp ngân sách 67,86 tỉ đồng, Công ty Airpay nộp ngân sách 48 tỷ đồng (Ngọc, 2022).
Tác động xấu đến môi trường:
Sự việc Công ty Vedan có những vi phạm về môi trường Việt Nam suốt 14 năm được lấy làm ví dụ điển hình để phân tích về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp. Việc xả thải không qua xử lý xuống sông Thị Vải, việc trốn nộp phí môi trường suốt nhiều năm của Vedan được cho là một cách tiết kiệm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp mà bỏ qua những quy chuẩn về môi trường. Tiếp sau vụ Vedan, cơ quan chức năng của Việt Nam lại phát hiện thêm một Vedan thứ 2 đó là Miwon - sản xuất bột ngọt tại Việt Trì (Phú Thọ), mỗi ngày xả tới 900m3 nước thải chưa xử lý ra sông Hồng. Và gần đây nhất, đường ống xả thải của Công ty Formosa Hà Tĩnh thuộc Tập
đoàn Formosa (Đài Loan) với công suất xả thải 12.000m3/1 ngày đêm chứa độc tố phê-non, xy- a-nua,… kết hợp hy-đrô-xít sắt, tạo thành một dạng phức hỗn hợp (mixel) quá tiêu chuẩn cho
phép đã làm khoảng 80 tấn hải sản chết hàng loạt dọc bờ biển 4 tỉnh Bắc miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiệt hại to lớn về kinh tế - xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, đời sống, tư tưởng của nhân dân. Tuy nhiên, không chỉ có Vedan, Miwon, Formosa mà ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp bị phát hiện đang ngấm ngầm phá hủy môi trường.
Có thể nói nơi nào tập trung càng nhiều khu công nghiệp thì nơi đó môi trường càng bị ô nhiễm nặng. Và đây chỉ là một vài dự án FDI bị phát hiện trong rất nhiều dự án đang gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường (Ngoan, 2019).
Xung đột lợi ích giữa người lao động và chủ đầu tư:
Bên cạnh những mặt tích cực do khu vực FDI tạo ra như: giải quyết việc làm, nâng cao trình độ lao động, cải thiện môi trường làm việc,… thì mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động hiện đang trở thành một vấn đề xã hội được nhiều người quan tâm. Trong một số trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài vì mục tiêu thu lợi nhuận cao đã không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của luật lao động. Theo báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, số cuộc có nguyên nhân liên quan đến tiền lương, thu nhập và điều chỉnh lương tối thiểu chiếm tỉ lệ khá cao (chiếm 54,1%). Một số ngành có tiền lương, thu nhập thấp xảy ra nhiều đình công như: Dệt may (162 cuộc, chiếm gần 51,8%); giày da có 71 cuộc (chiếm gần 22,5%) (Hương, 2022).
Hiện tượng chuyển giá ở các doanh nghiệp FDI khá phổ biến:
Hiện tượng chuyển giá hầu như xảy ra đối với các công ty đa quốc gia. Tại Việt Nam, hiện tượng chuyển giá được thể hiện thông qua việc: khai tăng giá trị tài sản vốn góp; mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào với giá cao; trốn thuế.
Một trong những lý do chính khiến các công ty có vốn ĐTNN đóng góp vào ngân sách nhà nước hiện nay vẫn còn thấp, chưa tương xứng với nguồn tài nguyên sử dụng là do lợi dụng chính sách ưu đãi đầu tư cao để thực hiện chuyển giá, chuyển lợi nhuận.
Hành vi chuyển giá của công ty liên kết không chỉ đơn thuần là việc điều chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp hơn để tránh thuế mà còn bao gồm cả chiều ngược lại. Nguyên nhân chính là do công ty mẹ muốn thu hồi vốn nhanh hoặc chuyển lợi nhuận để thực hiện chiến lược kinh doanh đã được công ty mẹ xây dựng trước đó (Phương, 2021).
Ngoài ra, tình trạng doanh nghiệp FDI có vốn mỏng, đi vay nhiều để tăng chi phí khấu hao làm giảm lợi nhuận để không phải đóng thuế cũng là thực trạng đáng báo động. Bởi qua rà soát nhanh 140 doanh nghiệp có dư nợ vay nước ngoài trung và dài hạn cao thì có đến hơn 46 doanh nghiệp chiếm đến 32% có tổng mức vay nước ngoài gấp 4 lần vốn chủ sở hữu mà 46 doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp FDI (Huyền, 2019).
Việc chuyển giao khoa học công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước còn chậm:
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) các hợp đồng CGCN đã được phê duyệt, số hợp đồng thuộc lĩnh vực công nghiệp hiện chiếm tới 63%, chế biến nông sản, thực phẩm chiếm 26% và y dược, mỹ phẩm chiếm 11%. Thông qua hoạt động FDI, nhiều công nghệ mới đã được thực hiện CGCN và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí nghiệp FDI; nhiều cán bộ, công nhân đã được đào tạo mới và đào tạo lại để cập nhật kiến thức phù hợp với yêu cầu mới. Hoạt động FDI cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước trong bối cảnh có sự canh tranh của cơ chế thị trường (BBT, 2017).
Triển vọng cho dòng vốn FDI tại Việt Nam
Năm 2021 đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt >31 tỷ đồng, tăng 9,2%, quy mô tăng 42%. Năm 2022 tiếp tục là một năm sáng của đầu tư FDI, đà tăng trưởng tích cực. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài chi trên 100 triệu đô la Mỹ. Ông Bruno Jaspaert – Tổng Giám đốc Tổ hợp Khu công nghiệp DEEP C:” Dự kiến năm này, 2022, chúng tôi sẽ chi trên 100 triệu Đô la Mỹ để xây dựng cơ sở hạ tầng tại các khu công nghiệp và sẽ thực hiện một dự án rất lớn, dự án nạo vét tuyến hàng hải mới, kết nối cảng Lạch Huyện của Hải Phòng với Quảng Ninh, theo góc nhìn của nhà đầu tư Châu Âu, Việt Nam hơn bao giờ hết là một địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất”, Ông Hong Sun – Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (Korcham) cho biết trong năm nay quy mô đầu tư sẽ còn tăng thêm, chắc chắn sẽ mở rộng đầu tư không giới hạn lĩnh vực. Theo đại diện cục đầu tư nước ngoài, dự kiến vốn đăng ký trực tiếp nước ngoài đạt 33-35 tỷ đô, tăng 9% so với năm 2021. Phó giám đốc Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hải Phòng đặt mục tiêu đón tập đoàn lớn đầu tư: có điều kiện mặt bằng tốt, sẵn sàng các điều kiện về đất đai sạch. Năm 2021, 106 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Việt Nam có hơn 30 năm kinh nghiệm thu hút FDI và đang đứng trước cơ hội được lựa chọn tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào những ngành, lĩnh vực Việt Nam muốn thu hút đầu tư thay vì đón dòng đầu tư dàn trải: lựa chọn các nhà đầu tư nước ngoài để tạo sự liên kết về công nghệ. Còn nhiều rào cản để VN hấp thụ dòng vốn chất lượng cao từ Mỹ và Châu Âu (VŨ, 2021). Việt Nam hiện có nhiều lợi thế trong việc thu hút vốn đầu tư FDI trong năm 2022. Việc thực thi nghị quyết 128 với cho phép mở của lại nền kinh tế là tiền đề để các nhà đầu tư ngoại tin tưởng, tiếp tục rót vốn đầu tư vào Việt Nam trong năm tới. Cùng với đó là những lợi thế từ những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có hiệp định tự do lớn nhất thế giới RCEP có hiệu lực từ đầu năm 2022. PGS, TS Bùi Quang Tuấn – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: “Một thị trường như Việt Nam vẫn có sức hút rất là lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và họ cũng đánh giá ta là một thị trường có tiềm năng tốt và đặc biệt là sự ổn định về thể chế chính sách, môi trường, kinh doanh đầu tư và tiềm năng phát triển” (24, 2022).
Lý do:
+ Theo báo cáo cập nhật Triển vọng phát triển châu Á năm 2021, do ngân hàng ADB, kinh tế VN đạt mức tăng trưởng 6.5% trong năm 2022. Ngày 6/4/2022, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố báo cáo trong đó nhận định kinh tế Việt Nam sẵn sàng phục hồi mạnh mẽ trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bất ổn định. Theo báo cáo, kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng mạnh mẽ ở mức 6.7 % trong năm 2023 do tỷ lệ tiêm chủng cao (Cường, 2022).
Tính đến ngày 22/3, 79,4 % dân số trên 18 tuổi đã được tiêm chủng đầy đủ và 47,5 % đã được tiêm mũi thứ ba. Tỷ lệ tiêm chủng cao cho phép chính phủ bỏ các biện pháp kiềm chế đại dịch nghiêm ngặt, gây gián đoạn. Sự chuyển hướng kịp thời trong chiến lược kiểm soát dịch bệnh
giúp khôi phục kinh tế và giảm sự bất ổn trong môi trường kinh doanh, đẩy mạnh thương mại và tiếp tục thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng. Từ đó các nhà đầu tư yên tâm rót vốn vào Việt Nam. Trong bài viết mới đây, hãng tin Sputnik (Nga) đã đánh giá cao nỗ lực thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của Việt Nam: “Việc các dự án FDI đầu tư mới, điều chỉnh tăng vốn hàng triệu USD ngay những ngày đầu năm 2022 cho thấy niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng phục hồi kinh tế của Việt Nam. Ngoài những gã khổng lồ công nghệ như Samsung hay Intel, vừa qua, hàng loạt dự án của các tập đoàn lớn, như: Foxconn, Pegatron, Wistron và LEGO cũng tuyên bố đẩy mạnh đầu tư sản xuất vào Việt Nam. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước
ngoài thuộc nhiều ngành hàng khác cũng đang chuyển dịch và xây dựng và xây dựng thêm
xưởng sản xuất ở Việt Nam. Chuyên trang Vietnam Briefing của Tập đoàn Dezan Shira & Associates có trụ sở tại Hồng Kông nhận định, Việt Nam là nhà sản xuất giá rẻ với giá cả lao động cạnh tranh. Bình quân giá nhân công của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với Trung Quốc hay Mỹ, trong khi chi phí kinh doanh ở Việt Nam cũng thấp, nhất là đối với lĩnh vực sản xuất, nhờ chi phí đầu tư phải hăng như chi phí xây dựng và đất đai. Ngoài ra, quốc gia gần 100 triệu dân sự này có lực lượng lao động tương đối lớn, có trình độ học vấn tốt. Chính phủ Việt Nam cũng đưa ra nhiều chương trình giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo người đào tạo lành nghề, đơn cử như Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045.
Thêm vào đó, Vietnam Briefing đánh giá việc Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại đa phương và song phương quan trọng có quy mô, tầm vóc lớn như Liên minh Châu Âu (EVFTA), với Anh (UKVFTA), các hiệp định thương mại song phương với Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản hay Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cũng thu hút các công ty xuất khẩu sản xuất. Việt Nam đã phê chuẩn và Cộng đồng chung châu Âu đang đi đến phê chuẩn Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA), tạo cơ sở và nền tảng vững chắc về mặt pháp lý cho Việt Nam hội nhập sâu, rộng vào kinh tế thế giới và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là yếu tố quan trọng nâng vị thế và sức hấp dẫn của Việt Nam trong chiến lược kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ những lợi thế về môi trường đầu tư hấp dẫn mà Việt Nam sẽ tiếp tục ở trong “tầm ngắm” của các tập đoàn sản xuất lớn trên thế giới, qua đó góp phần đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Trang mạng Tech Wire Asia (Malaysia) dự báo: “Việt Nam sẽ tiếp tục dẫn đầu khu vực về sản xuất và chế tạo, ít nhất là trong tương lai gần”.
Điểm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam còn nằm ở tình hình chính trị ổn định, ổn định đảm bảo sự nhất quán trong chính sách phát triển kinh tế và môi trường pháp lý đầy đủ là một trong những yếu tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư. Chính sách đầu tư nước ngoài thông thoáng, mở cửa thị trường, khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thông qua các thủ tục hành chính và ưu đãi đầu tư. Điển hình là Luật Đầu tư 2020 và Luật Doanh nghiệp 2020, có hiệu lực từ ngày 1/1/2021 tiếp tục thể hiện chính sách đầu tư nước ngoài cởi mở của Việt Nam bằng cách cắt giảm một số thủ tục hành chính về đầu tư. Ông Choi Joo Ho – Tổng Giám đốc
Samsung Việt Nam: “Chúng tôi tin tưởng hoàn toàn vào các biện pháp phòng chống dịch của thủ tướng và chính phủ Việt Nam, chúng tôi sẽ nỗ lực hết sức trong công cuộc hồi phục kinh tế của Việt Nam. Nếu trước đây Samsung chỉ đầu tư vào sản xuất và lắp rắp thì tới đây tạp toàn sẽ nâng cấp nhiều hơn vào nghiên cứu và phát triển.”. Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO): Trong vòng 10 đến 20 năm qua, Việt Nam đã trở thành cơ sở sản xuất của các công ty Nhật Bản, hầu như sẽ chẳng công ty nào nghĩ đến việc rời bỏ Việt Nam chỉ vì vài tháng khó khăn…” Cuộc cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung và chi phí lao động ngày càng cao ở Trung Quốc khiến các nhà đầu tư nước ngoài phải cân nhắc khi quyết định đầu tư vào quốc gia
này, càng làm tăng thêm triển vọng các doanh nghiệp tiềm năng đầu tư vào Việt Nam. Ước tinh chi phí lao động sản xuất ở Trung Quốc là 5,51 USD/giờ vào năm 2018, trong khi con số này ở Việt Nam là 2,37 USD/giờ. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất tại Việt Nam để cung cấp cho thị trường Trung Quốc xuất phát từ cuộc cạnh tranh thương mại này. Dự đoán vốn FDI đăng kí vào Việt Nam sẽ tăng khoảng 9-10 % so với cùng kì và vốn FDI giải ngân tăng 8-9 % so với cùng kỳ năm 2021 (NGÂN, 2022).
Để phát triển kinh tế bền vững, có sự liên kết giữa các ngành, Việt Nam cần có những định hướng đúng đắn trong việc lựa chọn dòng vốn đầu tư nước ngoài FDI.
Về cơ cấu đầu tư, trong giai đoạn tới việc thu hút FDI cần tập trung vào các ngành có khả năng tăng cường giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của địa phương (ưu tiên trước mắt); tập trung vào các ngành có khả năng cạnh tranh thắng lợi (ưu tiên ngắn hạn) và mở của thị trường và phát triển kỹ năng. Một trong những trọng tâm thu hút FDI là hướng đến các sự án có công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ “xanh” vào phát triển các ngành hàng tham gia xuất khẩu.
Trung tâm thu hút FDI vào thực hiện tái cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế tham gia xuất khẩu hàng hóa sẽ được tập trung vào ba định hướng trọng tâm chính: đầu tư phát triển xuất khẩu hàng hóa trong các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; đầu tư phát triển xuất khẩu hàng hóa trong các ngành công nghiệp; đầu tư phát triển xuất khẩu hàng hóa trong các ngành dịch vụ phục vụ cho phát triển xuất khẩu hàng hóa. Bên cạnh đó cũng cần chú trọng thu hút đầu tư của các tập
đoàn lớn, có tác động lan tỏa tới các khu vực kinh tế trong nước cùng phát triển xuất khẩu bảo vệ môi trường. Tiếp tục áp dụng đa dạng hóa các hình thức thu hút FDI. Trong đó tiếp tục chú trọng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, mở rộng hình thức liên doanh với điều kiện phải nâng cao nội lực của các doanh nghiệp trong nước để tham gia liên doanh một cách hiệu quả
+ Cần chủ động đón đầu sự chuyển dịch các dòng vốn đầu tư chất lượng cao đến từ các quốc gia như Mỹ, châu Âu, Nhật, Hàn Quốc. Giảm dần các dòng vốn chất lượng thấp, hướng vào các ngành nghề không ưu tiên, không đảm bảo các mục tiêu phát triển bền vững và định hướng phát triển của nền kinh tế. Định hướng chuyển dịch cơ cấu về thị trường và đối tác đầu tư cũng cần
đặc biệt lưu ý đến sự tác động căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và yêu cầu đảm bảo an ninh, quốc phòng của từng vùng trong nước để có chiến lược thu hút và phát triển khu vực FDI thích hợp. Từng vùng, cần căn cứ vào mức độ và khả năng liên kết và kết nối giữa các địa phương trong vùng với các địa phương, các vùng lân cận và cả nước nói chung. Việc thu hút và phát triển FDI cần hướng vào việc tạo ra các “đầu tàu”, “trung tâm” để làm động lực lôi kéo và thúc đẩy toàn vùng phát triển theo mục tiêu phát triển bền vững. Trong giai đoạn tới, các dự án chủ yếu dựa vào gia công, chế biến sẽ chuyển dịch ra khỏi các khu vực kinh tế trọng điểm sang
các địa phương xa hơn, không đòi hỏi nguồn nhân lực có kỹ năng. Ngược lại các dự án FDI chất
lượng cao, có hàm lượng công nghệ cao, đòi hỏi nguồn lao động có kỹ năng sẽ chảy vào các khu vực kinh tế trọng điểm. động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
+ Tăng cường ảnh hưởng tích cực của khu vực FDI trong định hướng phát triển bền vững nền kinh tế. Hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến đầu tư, doanh nghiệp, hoàn thiện cơ chế pháp lý và thể chế nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nâng cao hiệu năng quản lý nhà nước đối với khu vực FDI trong thực hiện chiến lược phát triển bền vững; khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của khu vực FDI đối với phát triển bền vững nền kinh tế. Tạo dựng những điều kiện để phát triển khu vực FDI trong thực hiện phát triển bền vững: i) phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; ii) đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư;
iii) phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; iv) tăng cường khung chính sách về bảo đảm đãi ngộ quốc gia, tối huệ quốc, đối xử công bằng với nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; v) từng bước dỡ bỏ những rào cản tham gia đầu tư (VVH, 2022).
Danh mực tài liệu tham khảo:
24, V. (2022). Triển vọng bứt phá trong thu hút đầu tư FDI năm 2022 4 thg 2, 2022.
A.N. (2021). EVFTA: Đòn bẩy thúc đẩy thương mại hai chiều. Báo Điện Tử Đảng Cộng Sản Việt Nam. https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/evfta-don-bay-thuc-day-thuong-mai- hai-chieu-600729.html
BBT. (2010). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu năm 2009 vẫn tiếp tục suy giảm. Báo Điện Tử - Đảng Cộng Sản Việt Nam. https://dangcongsan.vn/kinh-te/dau-tu-truc-tiep-nuoc- ngoai-fdi-toan-cau-nam-2009-van-tiep-tuc-suy-giam-6968.html
BBT. (2017). Thực trạng và giải pháp chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Trung Tâm Kiểm Định và Kiểm Nghiệm Đồng Tháp. https://dovetec.vn/thuc-trang-va-giai-phap-chuyen-giao- cong-nghe-o-viet-nam/
BBT. (2021). Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2021. https://fia.mpi.gov.vn/Detail/CatID/f3cb5873-74b1-4a47-a57c- a491e0be4051/NewsID/5d476094-8272-4d9d-b810-1609ce7b67b3/MenuID
BBT. (2022). Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2022: “Kỳ vọng khởi sắc.”
BTT. (2018). 30 năm thu hút FDI: Từ quyết định lịch sử. The World & Vietnam Report. https://baoquocte.vn/30-nam-thu-hut-fdi-tu-quyet-dinh-lich-su-79018.html
Cường, N. M. (2022). Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á.
Hương, N. T. M. (2022). Tính hai mặt của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Huyền, K. (2019). Nhìn lại kết quả và hạn chế sau hơn 30 năm thu hút đầu tư FDI. Báo Điện Tử
VTV News. https://vtv.vn/kinh-te/nhin-lai-ket-qua-va-han-che-sau-hon-30-nam-thu-hut- dau-tu-fdi-20190826165449375.htm
Lâm, N. T. H. N. X. (2012). Tác động của tiến trình gia nhập WTO đến cán cân thanh toán của Việt Nam. Tạp Chí Công Nghệ Ngân Hàng, Số 80 (2012).
Linh, Đ. Y. (2022). FDI là gì? Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp FDI. ATP Web. https://atpweb.vn/blog/fdi-la-gi/
Minh, T. (2018). Cuộc khủng hoảng tài chính 10 năm nhìn lại. Báo Điện Tử Chính Phủ. https://baochinhphu.vn/cuoc-khung-hoang-tai-chinh-10-nam-nhin-lai-102244764.htm
NGÂN, K. (2022). Triển vọng Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất của thế giới. Quân Đội Nhân Dân. https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/trien-vong-viet-nam-tro-thanh-trung- tam-san-xuat-cua-the-gioi-685738
Ngoan, P. thị. (2019). Mở cửa thu hút FDI và vấn đề môi trường. Tạp Chí Công Thương.
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/mo-cua-thu-hut-fdi-va-van-de-moi-truong-67227.htm
Ngọc, B. (2022). Đã đến lúc chọn lọc đầu tư FDI. Báo Tuổi Trẻ. https://tuoitre.vn/da-den-luc- chon-loc-dau-tu-fdi-20220319085031024.htm
Phương, B. N. M. (2021). Quản lý hoạt động chuyển giá và giải pháp tại Việt Nam. Tạp Chí Công Thương. https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/quan-ly-hoat-dong-chuyen-gia-va-giai- phap-tai-viet-nam-77917.htm
Thái, N. Đ. T. & N. Q. (2014). Ảnh hưởng từ sự kiện giàn khoan 981 đến kinh tế Việt Nam hết
2014 và xa hơn.
VŨ, H. (2021). Việt Nam tiếp tục là “thỏi nam châm” hút dòng vốn FDI. Quân Đội Nhân Dân. https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/viet-nam-tiep-tuc-la-thoi-nam-cham-hut-dong- von-fdi-680714
VVH. (2022). Thu hút FDI trong chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam: Định hướng mới, giải pháp đồng bộ. Tạp Chí Điện Tử Khoa Học Công Nghệ Việt Nam. http://vjst.vn/vn/tin- tuc/4616/thu-hut-fdi-trong-chien-luoc-phat-trien-ben-vung-cua-viet-nam--dinh-huong-moi-- giai-phap-dong-bo.aspx
Không có nhận xét nào