Nguyễn Hòa Bình
Nguyễn Minh Đức
Doanh nhân
11/6/2025
Một cửa hàng trên phố Phạm Ngọc Thạch, có mặt tiền rộng hơn 10 m, treo băng rôn "trả mặt bằng, xả siêu rẻ". Bên trong hiện đã bỏ trống, với diện tích sàn hơn 100 m2, giá cho thuê gần 100 triệu đồng mỗi tháng.
Hóa đơn dịch vụ vệ sinh in từ máy POS vào ngày 6/6 của một công ty TNHH thu hút sự chú ý của tôi: 5.555 đồng cho hai lần sử dụng, cộng thêm 8% VAT (444 đồng), tổng cộng 6.000 đồng do khách hàng chi trả.
Đây là một ví dụ dễ hiểu cho trạng thái "bình thường mới" của môi trường kinh doanh mà cả xã hội sẽ phải tập làm quen: từ mớ rau con cá cũng cần có hóa đơn và nộp thuế, theo Nghị định 70.
Đầu tiên phải khẳng định: điều này là rất tốt cho đất nước. Cũng như "đã uống rượu bia thì không lái xe", đã kinh doanh đương nhiên phải nộp thuế. Tuy nhiên, với việc truy thu thuế và truy xuất hóa đơn chứng từ, theo tôi, Nhà nước nên xem xét miễn hồi tố, đồng thời triển khai có lộ trình, đặc biệt với các hộ kinh doanh buôn thúng bán bưng đang tự giải quyết công ăn việc làm cho bản thân và xã hội; tránh phản ứng tiêu cực như cách tiểu thương đang đồng loạt ngừng kinh doanh như hiện nay.
Một đất nước đã có hàng chục năm dài mua bán không hóa đơn sẽ cần nhiều thời gian hơn nữa để làm quen với cách thức kinh doanh "văn minh, hiện đại, công bằng", nhằm nộp đúng và đủ thuế. Ngày đó chắc chắn phải tới.
Nhưng điều quan trọng hiện tại về chính sách thuế, mà tôi muốn nêu ra trong bài này là sự công bằng của pháp luật nhằm tránh tình trạng "bóp chỗ này, buông chỗ nọ", gây ra những bất bình đẳng trong kinh doanh, chẳng hạn, khiến doanh nhân Việt bị o ép, thiệt thòi trên sân nhà còn doanh nhân nước ngoài được hưởng lợi.
Theo tôi, ngành kinh doanh bán lẻ có thể chia ra làm ba khối và đều đang chịu ảnh hưởng lớn từ Nghị định 70.
Khối kinh doanh nhỏ theo hình thức bán hàng trực tiếp đang trải qua một năm "tam tai": thị phần tiếp tục bị thu hẹp bởi thương mại điện tử; bỏ thuế khoán, chuyển sang thuế kê khai; và cuối cùng là nguy cơ bị truy bắt hàng tồn kho, truy xuất nguồn gốc hàng hóa - vốn rất khó hoặc không thể có hóa đơn đầu vào ở một số lĩnh vực (nông sản, ăn uống...).
Hệ lụy đang rất rõ ràng. Hàng loạt tiểu thương ở Hà Nội và TP HCM đã tạm ngừng kinh doanh - một biểu hiện của sự lúng túng, bối rối; hoặc cũng có thể là cách phản ứng nhẹ với những chính sách được triển khai đường đột, thiếu lộ trình.
Nhóm thứ hai, các nhà bán hàng online, cũng đang gặp những thách thức không nhỏ. Chi phí để bán được hàng (phí giao dịch cho sàn TMĐT, quảng cáo và khuyến mãi, lưu kho, vận chuyển...) ngày càng tăng và được dự đoán có thể lên 50% doanh thu bán hàng, chưa bao gồm các chi phí vận hành khác (trả lương, bảo hiểm, thuê văn phòng, nhà xưởng...). Hàng loạt sàn TMĐT điều chỉnh mức phí bán hàng từ khoảng tháng 2 và tháng 4/2025. TikTok Shop chẳng hạn, nâng mức phí hoa hồng từ 3% lên 4% đối với nhà bán hàng thường và lên đến 7,7% đối với gian hàng chính hãng (shop mall).
Hậu quả là họ sẽ phải đẩy giá bán lẻ lên gấp nhiều lần so với giá vốn để có lãi. Nay nếu bị hồi tố và thu thuế trên phần trăm doanh thu, thay vì phần trăm lợi nhuận, không ít "doanh nhân online" sẽ từ lãi thành lỗ sau khi nhận hóa đơn thuế.
Trong bối cảnh đó, tôi rầu rĩ nhận ra một "thế lực" mới nổi và âm thầm hưởng lợi, theo kiểu bất chiến tự nhiên thành - là các nhà bán hàng xuyên biên giới từ nước ngoài.
Theo ước tính, riêng sàn Shopee (chiếm 70% thị phần TMĐT) hiện có khoảng 31.500 nhà bán xuyên biên giới từ nước ngoài, bên cạnh hai sàn TMĐT nước ngoài khác (tổng cộng chiếm đến 99% thị phần).
Các sàn TMĐT nói trên đang tràn ngập hàng hóa giá rẻ bán lẻ trực tiếp từ nước ngoài (hầu hết là Trung Quốc) đến tận tay người tiêu dùng Việt Nam. Với hệ thống tổng kho sát biên giới hùng hậu và quy mô thị trường lớn gấp 15 lần Việt Nam, hàng hóa từ Trung Quốc đang rẻ hơn, đa dạng hơn và chuyển đến người dùng nhanh hơn cả hàng nội địa.
Vấn đề là khối bán hàng xuyên biên giới này, ngoài 10% thuế VAT (mới áp dụng gần đây) thì không phải chịu nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm khác như nhà bán Việt Nam, cụ thể: không thuế nhập khẩu (với hàng giá trị dưới 1 triệu, thậm chí còn đang có đề xuất tăng lên 2 triệu), không thuế doanh thu hoặc thu nhập, ít tạo công ăn việc làm cho người Việt (một số hãng vận chuyển nội địa Việt Nam nhưng hầu hết cũng của chủ Trung Quốc)...
Điều này dẫn đến việc họ có lợi thế rất lớn so với hàng nội địa trên chính thị trường Việt Nam. Nếu không có các chính sách phù hợp cân bằng lại, hàng ngoại nhập xuyên biên giới có thể tăng trưởng rất nhanh, khoảng 20-30% mỗi năm, đẩy lùi hàng hóa nội địa và các nhà bán trong nước để thống lĩnh thị trường trong 10-20 năm tới.
Thực tế cho thấy nhiều shop mặt phố gần đây đang dần đóng cửa hàng loạt khiến mặt bằng bán lẻ ế thừa, còn hàng Việt trên các shop online ít dần ít mòn đi.
Nỗi lo ngành sản xuất và bán lẻ hàng tiêu dùng ở Việt Nam bị xâm thực và chiếm hữu bởi các doanh nhân ngoại, giống như thực trạng tại nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, là một điều hiện hữu. Theo đà đó, Việt Nam có nguy cơ trở thành "chợ tiêu dùng không biên giới" nếu không được điều chỉnh kịp thời.
Để điều chỉnh, nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng đối với khối bán hàng thương mại điện tử xuyên biên giới, tôi đề xuất một số chính sách sau:
Ngoài 10% thuế VAT, cần áp dụng thêm thuế doanh thu (tối thiểu 10% nữa) trên giá trị các đơn hàng bán lẻ xuyên biên giới thông qua các sàn TMĐT vào Việt Nam
Giảm giá trị đơn hàng xuyên biên giới được miễn thuế nhập khẩu từ một triệu đồng như hiện nay xuống 100 nghìn đồng, thậm chí bãi bỏ hẳn việc miễn thuế tối thiểu này, như nhiều quốc gia phát triển khác đã áp dụng để bảo vệ thị trường trong nước.
Giám sát dòng tiền đang chuyển ra nước ngoài của các sàn TMĐT nhằm giám sát thuế và chống chuyển giá.
Có chính sách kiểm soát giá phí của các sàn TMDT và ưu tiên cho nhà bán Việt Nam (vì đây là dịch vụ thiết yếu của xã hội thời đại 4.0), không để tình trạng tăng phí vô tội vạ chèn ép nhà bán hàng trong nước như hiện nay.
"Mớ rau con cá cũng hóa đơn" xét cho cùng là chuyện sẽ phải làm, và cũng không quá khó để giải quyết. Tôi tin rằng: cộng đồng các nhà kinh doanh nhỏ lẻ của Việt Nam luôn mong muốn tuân thủ pháp luật và sẵn sàng nộp thuế để xây dựng đất nước. Tuy nhiên môi trường kinh doanh cần đảm bảo công bằng để nếu không bảo hộ được doanh nghiệp trong nước thì ít nhất họ cũng không quá thiệt thòi so với các đối thủ nước ngoài.
Nguyễn Hòa Bình
https://vnexpress.net/mo-rau-con-ca-va-hoa-don-4897191.html
Thuế bảo hộ ngược
Nguyễn Minh Đức
Chuyên gia luật và chính sách công
Cách đây vài năm, tôi có dịp nghe các doanh nghiệp phân bón than phiền rằng chính sách thuế giá trị gia tăng đang bảo hộ ngược, khiến phân bón trong nước kém cạnh tranh so với hàng nhập khẩu.
Theo quy định hiện hành, phân bón vốn thuộc diện không chịu thuế. Những tưởng không chịu thuế thì sướng, ai ngờ lại khổ, vì không chịu thuế đồng nghĩa với việc không được khấu trừ thuế đầu vào. Mà tỷ trọng thuế đầu vào của sản xuất phân bón là rất lớn.
Lãnh đạo một công ty phân bón lớn nói thẳng: "Tôi sợ chính sách thuế sẽ khiến ngành phân bón giật lùi về công nghệ sản xuất", vì doanh nghiệp không muốn đầu tư. Càng đầu tư máy móc nhà xưởng hiện đại thì chi phí thuế đầu vào không được khấu trừ càng tăng, đẩy giá thành sản phẩm lên cao, khó thu hồi vốn. Trong khi đó, phân bón nhập khẩu lại không phải chịu đồng thuế giá trị gia tăng nào, kể cả nộp cho Việt Nam lẫn cho nước xuất khẩu.
Thế mới có chuyện ngược đời: các doanh nghiệp trong nước xin được chuyển sang diện đóng thuế, vì chỉ khi đó họ mới được bình đẳng với hàng hóa nhập khẩu.
Thuế GTGT của Việt Nam có bốn nhóm đối tượng: 10%, 5%, 0% và không chịu thuế. Nhiều người nhầm lẫn giữa diện 0% và diện không chịu thuế. Cả hai đều không có thuế đầu ra, nhưng diện 0% được khấu trừ thuế đầu vào và chỉ áp dụng cho hàng xuất khẩu, còn diện không chịu thuế không được khấu trừ đầu vào và áp dụng cho hàng tiêu dùng trong nước.
Trên thực tế, doanh nghiệp sản xuất hàng không chịu thuế vẫn phải gián tiếp nộp một số thuế GTGT nhất định thông qua việc chi trả các chi phí đầu vào. Mức thuế này sẽ chạy từ 0% đến 10%, phụ thuộc các nguyên liệu đầu vào chịu thuế đến đâu.
Điều này cũng không có gì đáng nói với một nền kinh tế đóng. Nhưng hiện nay, nền kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ, nhiều hàng hóa thuộc diện không chịu thuế được nhập khẩu. Hàng hóa này khi vào Việt Nam thì không phải nộp thuế GTGT, và khi ra khỏi nước xuất khẩu thì đã được chính phủ nước đó hoàn thuế GTGT đầu vào.
Đến đây nảy sinh một sự bất công. Cùng một loại hàng hóa, sản xuất trong nước thì phải nộp thuế GTGT gián tiếp qua chi phí đầu vào, còn nhập khẩu thì không phải nộp đồng thuế GTGT nào, cho bất kỳ chính phủ nào.
Trước đây, Việt Nam duy trì thuế nhập khẩu khá cao, lợi thế về thuế GTGT của hàng nhập khẩu này bị thuế nhập khẩu triệt tiêu. Nhưng khi Việt Nam tham gia nhiều FTAs, thuế nhập khẩu giảm về không, tác động bảo hộ ngược của thuế gia trị gia tăng này ngày càng lộ rõ.
Ví dụ một doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước đang phải nộp thuế GTGT gián tiếp khoảng 8% trong các hóa đơn đầu vào. Trong khi đó, thuế nhập khẩu của nhiều loại phân bón đã giảm về 0%. Tức là nếu có hai nhà máy phân bón giống hệt nhau đặt tại Việt Nam và Thái Lan, cùng bán hàng hoá trên thị trường Việt Nam, thì hàng sản xuất trong Việt Nam đang có chi phí thuế cao hơn khoảng 8% so với hàng từ Thái Lan. Mức thuế này khiến các nhà máy sản xuất phân bón trong nước điêu đứng.
Chuyện bảo hộ ngược (khuyến khích nhập khẩu hàng hóa thay vì sản xuất trong nước) xuất hiện ở nhiều mặt hàng không chịu thuế khác như nông sản, phần mềm, máy nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi và một số loại máy móc, vật tư, thiết bị... Mỗi mặt hàng lại có mức độ chênh lệch thuế khác nhau, phụ thuộc vào cấu thành các chi phí đầu vào.
Mỗi khi đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTAs) chúng ta luôn phải cân lên đặt xuống mỗi khi hạ một dòng thuế nhập khẩu. Bởi việc mở cửa cho hàng hóa nước ngoài, tức là đang tước đi việc làm của người lao động trong nước. Chúng ta thường chỉ chấp nhận mở cửa, nếu nước đối tác cũng đáp ứng nguyên tắc có đi có lại. Thế nhưng, chính sách thuế giá trị gia tăng như hiện nay đã mở toang thị trường Việt Nam cho một số loại hàng hóa nước ngoài mà không đổi lại lợi ích gì cho đất nước.
Theo tôi, Bộ Tài chính đã nhìn thấy vấn đề này từ lâu, nhưng chưa đưa ra được giải pháp nào khả thi. Bộ cũng muốn đẩy các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế, nhưng mức thuế suất mới là bao nhiêu sẽ gây tranh cãi.
Nếu đẩy toàn bộ mặt hàng diện không chịu thuế sang 0% thì ngân sách phải hoàn thuế với số tiền khổng lồ, nguy cơ gian lận thuế rất cao. Chắc chắn Bộ Tài chính không thích.
Nếu đẩy các mặt hàng không chịu thuế sang mức 5% thì sẽ có phản ứng khác nhau. Các mặt hàng có chi phí thuế GTGT chưa được khấu trừ trên 5% sẽ ủng hộ. Nhưng các mặt hàng có chi phí thuế GTGT chưa được khấu trừ dưới 5% sẽ phải nộp thêm thuế. Đương nhiên họ không thích điều này.
Nếu đẩy các mặt hàng không chịu thuế sang các mức thuế tương ứng với mặt hàng đó như 1% với nông sản, 2% đối với phần mềm, 3% với thức ăn chăn nuôi... thì sẽ nảy sinh các mức thuế rất lắt nhắt. Doanh nghiệp trong nước về cơ bản sẽ không phải nộp thêm đồng nào do thuế đầu ra đúng bằng thuế đầu vào và được khấu trừ. Ngân sách sẽ thu được thêm thuế từ hàng nhập khẩu và bảo đảm công bằng giữa hàng trong nước và nhập khẩu.
Còn một phương án nữa là đặt ra mức thuế giá trị gia tăng dành riêng cho hàng hóa nhập khẩu (ví dụ 5%) và giữ nguyên quy định đối với hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nhưng như thế lại có rủi ro vi phạm cam kết thương mại quốc tế về đối xử quốc gia, theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ đối xử với hàng nhập khẩu không kém thuận lợi so với hàng trong nước.
Phương án nào cũng có thiệt hơn, nhưng rõ ràng đây là vấn đề cần xử lý, vì một chính sách thuế bảo hộ ngược là điều không thể tiếp tục kéo dài nếu chúng ta muốn sản xuất trong nước phát triển.
Nguyễn Minh Đức
https://vnexpress.net/thue-bao-ho-nguoc-4640492.html
Không có nhận xét nào