Ts. Phạm Đình Bá
09/7/2025
Tô Lâm, trong vai trò Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số’ gần đây đã phán rằng: “Yêu cầu các bộ các cơ quan, phải chủ động tìm kiếm, phát hiện và đề xuất các ứng viên tiềm năng cho các vị trí tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng, bao gồm các chuyên gia hàng đầu trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia quốc tế có uy tín”; và
“Có chính sách đãi ngộ đặc biệt (vượt khung lương, nhà ở, môi trường làm việc) để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc”.
Trên báo Tiếng Dân, ông Nguyễn Ngọc Chu góp ý về phán quyết của Tô Lâm. Ông Chu cho rằng - Thay đổi môi trường cho các nhà khoa học không chỉ nhà ở, lương cao, phương tiện kỹ thuật và tài chính cho chính họ hay chỉ một chu vi nhỏ xung quanh họ. Thay đổi trong phạm vi nhỏ hẹp như vậy thì 100 nhà khoa học hay đông hơn nữa cũng không xoay chuyển được tình hình. Còn buồn hơn, sớm hay muộn họ sẽ bị môi trường đồng hoá, đào thải. Những người tài theo cụ Hồ về nước trong giai đoạn đầu của nước VNDCCH là một thực tế để suy ngẫm.
Ông Nguyễn Đình Cống trao đổi với ông Chu rằng - bầu trời VN đang bị phủ kín mây mù và trăm triệu người dân đang đợi chờ thời điểm “vén mây mù để trông thấy trời xanh”. Liệu lãnh đạo nhà nước có thấy được mây mù đang phủ kín đó không. Phải chăng để thấy được mây mù như thế nào rất cần có luật về tự do ngôn luận.
Tôi ở xa nên dễ nói thẳng - Đảng mới là vấn đề, không phải chính sách. Chính là thể chế, ngốc ạ!
Mặc dù Việt Nam đã cam kết “đãi ngộ đặc biệt” cho chuyên gia cao cấp, một loạt rào cản thể chế – từ yêu cầu trung thành chính trị, thủ tục hành chính rườm rà, môi trường quản trị rủi ro đến hạn chế tự do học thuật – vẫn làm giảm sức hút của khu vực công. Chỉ khi đồng thời tháo gỡ các điểm nghẽn này, chính sách thu hút 100 chuyên gia hàng đầu mới có cơ hội thành công.
Các quy định như Điều 4 Hiến pháp khẳng định vai trò lãnh đạo “duy nhất” của Đảng Cộng sản. Đối với vị trí trọng yếu, ứng viên thường phải qua quy trình thẩm tra chính trị, thậm chí được khuyến khích trở thành đảng viên. Song, với chuyên gia quốc tế, việc bị ràng buộc bởi văn hoá “đảng tịch” và nguy cơ bị xử lý vì phát ngôn “xuyên tạc” theo các điều 117, 331 Bộ luật Hình sự là rủi ro đáng kể.
Khảo sát 300 doanh nghiệp tại Sài Gòn cho thấy quy trình xin giấy phép lao động có thể kéo dài hàng tháng dù cơ quan quản lý bác bỏ điều này. Dự thảo nghị định mới hứa hẹn cắt xuống 10 ngày, nhưng việc phân cấp cho từng tỉnh khiến thời gian thực tế phụ thuộc “thiện chí” địa phương.
Chiến dịch chống tham nhũng dẫn tới trì hoãn quyết định đầu tư – phê duyệt do cán bộ e ngại bị quy trách nhiệm. Các chuyên gia quốc tế, vốn quen môi trường minh bạch và cơ chế giải trình rõ ràng, do đó lo ngại rủi ro liên đới.
Nghiên cứu trong lĩnh vực nhân văn – xã hội phải qua hội đồng thẩm định nội bộ; chủ đề nhạy cảm có thể bị yêu cầu “điều chỉnh” kết luận. Điều này gây khó khăn cho chuyên gia muốn công bố quốc tế, vốn đòi hỏi độc lập học thuật.
Rào cản thể chế tại Việt Nam hiện nay không chỉ nằm ở thu nhập hay cơ sở hạ tầng mà chủ yếu xuất phát từ mô hình độc tài độc đảng toàn trị, công an hóa hệ thống nhà nước, quản trị tập trung, thủ tục phức tạp và không gian học thuật hạn hẹp. Nếu không cải tổ đồng bộ các khâu – đặc biệt là minh bạch quy trình chính trị, đơn giản hóa hành chính và bảo hộ tri thức – mục tiêu thu hút “ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu” sẽ khó thành hiện thực, cho dù chính sách đãi ngộ có hấp dẫn đến đâu.
Không có nhận xét nào