Header Ads

  • Breaking News

    Đọc báo trong nước

    Thứ sáu 10 tháng 7 năm 2025

    Coca-Cola xây thêm nhà máy quy mô lớn nhất tại Việt Nam

    Thái Phương / Người Lao Động

    11/7/2025

    Nhà máy tại tỉnh Tây Ninh có quy mô lớn nhất của Coca-Cola ở Việt Nam do Tập đoàn Swire Coca-Cola (Mỹ, Anh) cùng đầu tư 

    Ngày 11-7, Công ty TNHH Nước giải khát Coca-Cola Việt Nam (Tập đoàn Swire Coca-Cola) đã khánh thành nhà máy có tổng vốn đầu tư 136 triệu USD tại KCN Phú An Thạnh (Bến Lức, Tây Ninh).

    Nhà máy lớn nhất của Coca-cola Việt Nam 

    Nhà máy ở Tây Ninh hiện sở hữu quy mô lớn nhất trong 3 cơ sở sản xuất hiện đại của Coca-Cola tại Việt Nam, với tổng diện tích 19 ha. Nhà máy được trang bị 5 dây chuyền chiết rót và đóng chai tiên tiến, tổng công suất lên đến 1 tỉ lít đồ uống mỗi năm, tập trung vào các dòng sản phẩm giải khát nổi tiếng. Đây cũng là nhà máy thực phẩm đồ uống đầu tiên đạt chứng nhận Công trình xanh LEED cấp độ Vàng (LEED Gold) tại Việt Nam.

    Bà Milly Cheng, Tổng Giám đốc Coca-Cola Việt Nam, cho biết đây là cơ sở sản xuất hiện đại hàng đầu, thể hiện niềm tin của doanh nghiệp vào tiềm năng tăng trưởng của thị trường Việt Nam và cam kết đầu tư lâu dài.

    Coca-Cola xây thêm nhà máy quy mô lớn nhất tại Việt Nam- Ảnh 1.

    Nhà máy tại tỉnh Tây Ninh là nhà máy sản xuất nước giải khát thứ 4 của Coca-Cola Việt Nam, bên cạnh 3 nhà máy đang hoạt động tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP HCM

    Môi trường đầu tư hấp dẫn của kinh tế Việt Nam 

    Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm nhận định sự kiện này đánh dấu mốc phát triển trong hành trình hoạt động của Coca-Cola tại Việt Nam; góp phần phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao môi trường đầu tư của tỉnh Tây Ninh.

    "Việc lựa chọn tỉnh Tây Ninh, nơi có vị trí chiến lược, đang phát triển công nghiệp sôi động để tiếp tục đầu tư, xây dựng nhà máy sản xuất nước giải khát lớn và hiện đại nhất của Công ty Coca-Cola tại Việt Nam là bước đi chiến lược, và là biểu tượng của sự kết nối, hợp tác giữa Việt Nam với các doanh nghiệp quốc tế. Điều này phản ánh rõ nét sự hội nhập sâu rộng, môi trường đầu tư hấp dẫn của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới" – Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm nhấn mạnh.

    Coca-Cola xây thêm nhà máy quy mô lớn nhất tại Việt Nam- Ảnh 2.

    Ông Nguyễn Văn Út, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh, cho biết việc khánh thành nhà máy đánh dấu một mốc quan trọng trong chiến lược mở rộng của Tập đoàn Swire Coca-Cola tại Việt Nam. Việc này còn thể hiện niềm tin mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp quốc tế, trong đó có các nhà đầu tư Mỹ và Anh, đối với môi trường đầu tư thân thiện, minh bạch và năng động của tỉnh Tây Ninh.

    https://nld.com.vn/coca-cola-xay-them-nha-may-quy-mo-lon-nhat-tai-viet-nam-19625071112165499.htm

    Hàng trăm nghìn tấn 'vàng trắng' từ Mỹ ồ ạt tràn về Việt Nam với giá siêu rẻ: nhập khẩu tăng hơn 100%, nước ta tiêu thụ 1,5 triệu tấn/năm 

    11/7/2025/  Thị trường 

    Mỹ là nhà cung cấp số 1 của Việt Nam ở mặt hàng này. 

    Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu bông các loại về Việt Nam trong tháng 6 đạt hơn 158 nghìn tấn, trị giá hơn 267 triệu USD.

    Lũy kế trong 5 tháng đầu năm nước ta đã nhập khẩu gần 946 nghìn tấn bông các loại với trị giá hơn 1,6 tỷ USD, tăng 26,6% về lượng và tăng 8,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2024.

    Trong 5 tháng đầu năm, Mỹ tiếp tục duy trì vị trí nhà cung cấp bông lớn nhất cho Việt Nam, với 455 nghìn tấn, trị giá gần 800 triệu USD, tăng mạnh 116% về lượng và tăng 79% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Giá bình quân đạt 1.754 USD/tấn, giảm 17% so với cùng kỳ.

    Thị trường này chiếm khoảng 48% trong tổng lượng nhập khẩu bông của Việt Nam. Đồng thời, nước ta cũng là thị trường nhập khẩu bông lớn thứ 3 của Mỹ, sau Trung Quốc và Pakistan.

    Brazil đứng thứ 2 với 310 nghìn tấn trong 5 tháng đầu năm, tương đương 543 triệu USD, giảm cả lượng lẫn kim ngạch. Úc là thị trường nhập khẩu bông lớn thứ 3 của Việt Nam với khối lượng và kim ngạch đều giảm mạnh.

    Hàng trăm nghìn tấn 'vàng trắng' từ Mỹ ồ ạt tràn về Việt Nam với giá siêu rẻ: nhập khẩu tăng hơn 100%, nước ta tiêu thụ 1,5 triệu tấn/năm- Ảnh 1.

    Việt Nam là quốc gia nhập khẩu bông lớn thứ 3 thế giới, với sản lượng tiêu thụ 1,5 triệu tấn/năm. Nước ta cũng là quốc gia xuất khẩu xơ sợi đứng thứ 6 thế giới và là nhà xuất khẩu hàng dệt may thứ 3 thế giới – chỉ sau Trung Quốc và Bangladesh.

    Dù là ngành xuất khẩu chủ lực, dệt may Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, với tỷ lệ lên tới khoảng 60% và bông là nguyên liệu không thể thiếu trong sản xuất sợi, vải và quần áo. Mỹ là quốc gia xuất khẩu bông lớn nhất thế giới, với chất lượng sợi bông ổn định, được thị trường toàn cầu ưa chuộng.

    Các doanh nghiệp dệt sợi Việt Nam thường nhập khẩu bông từ Mỹ để: Đảm bảo chất lượng sợi ổn định, phục vụ sản xuất quy mô lớn; Đáp ứng tiêu chuẩn cao khi xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ, EU; Giảm thiểu rủi ro biến động giá từ các thị trường khác.

    Những nhà máy dệt lớn ở Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, TP.HCM… đều đang tăng cường nhập khẩu bông từ Mỹ để phục vụ kế hoạch sản xuất xuất khẩu trong năm 2025.

    Việt Nam và Mỹ chưa có hiệp định thương mại tự do song phương, nên hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ thường áp dụng thuế suất nhập khẩu ưu đãi. Mức thuế với bông nhập khẩu từ Mỹ là khoảng 5%.

    Dự báo xuất khẩu bông của Mỹ có thể giảm do thời tiết khắc nghiệt. Theo báo cáo của USDA vào tháng 11 năm 2024, xuất khẩu bông dự kiến giảm 200 triệu USD xuống còn 4,3 tỷ USD do khối lượng xuất khẩu thấp hơn.

    USDA dự báo xuất khẩu bông của Mỹ sang Việt Nam sẽ tăng mạnh trong năm 2025 với nhu cầu đạt kỷ lục, nhờ nhu cầu bông của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, khi thị trường dệt may toàn cầu phục hồi và sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành này.

    https://cafef.vn/hang-tram-nghin-tan-vang-trang-tu-my-o-at-tran-ve-viet-nam-voi-gia-sieu-re-nhap-khau-tang-hon-100-nuoc-ta-tieu-thu-15-trieu-tan-nam-188250711064736302.chn

    Lương tối thiểu vùng năm 2026 tăng cao nhất 350.000 đồng/tháng 

    Phương án tăng lương tối thiểu vùng năm 2026 được Hội đồng Tiền lương quốc gia “chốt” trình Chính phủ là tăng bình quân 7,2%, mức tăng bình quân là 300.000 đồng/tháng so với năm 2025.

    Hồng Kiều/Vietnam Plus

    11/7/2025

    (Ảnh: PV/Vietnam+)


    (Ảnh: PV/Vietnam+) 

    Hội đồng Tiền lương quốc gia đã “chốt” được phương án tiền lương tối thiểu vùng năm 2026 tại phiên họp thứ 2 diễn ra hôm nay 11/7. Phương án này sẽ được trình Chính phủ thông qua.

    Thông báo về kết quả bỏ phiếu thông qua phương án về tiền lương tối thiểu vùng năm 2026, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Hội đồng Tiền lương quốc gia Nguyễn Mạnh Khương cho biết 13/16 thành viên (3 thành viên bỏ phiếu trắng) hội đồng đã bỏ phiếu tán thành với phương án tiền lương tối thiểu vùng năm 2026.

    “Sau khi 3 bên đã trao đổi, thảo luận và các bên đưa ra rất nhiều các giả thiết, tình huống, đặc biệt là các yếu tố về quá trình về phát triển kinh tế của đất nước, thành viên hội đồng đã thống nhất rất cao với phương án tỷ lệ là tăng lương tối thiểu vùng năm 2026 là 7,2 %, thời điểm tăng là ngày 1/1/2026,” ông Nguyễn Mạnh Khương cho hay.

    Chủ tịch Hội đồng Tiền lương quốc gia đánh giá đây là tỷ lệ tốt, phù hợp với giai đoạn hiện nay trong việc mà phát triển kinh tế của đất nước, hướng tới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và tăng trưởng kinh tế là 8 % theo chủ trương của Đảng trong năm nay và những năm tiếp theo thì sẽ đạt được hai con số.

    Phương án tăng lương tối thiểu vùng năm 2026 được Hội đồng Tiền lương quốc gia “chốt” trình Chính phủ là tăng bình quân 7,2%, mức tăng bình quân là 300.000 đồng/tháng so với năm 2025.

    Cụ thể, lương tối thiểu Vùng I tăng từ 4,96 triệu đồng/tháng lên 5,31 triệu đồng/tháng (tăng thêm 350.000 đồng, 7,1%); Vùng II tăng từ 4,41 triệu đồng/tháng lên 4,73 triệu đồng/tháng (tăng 320.000 đồng. 7,3%); Vùng III tăng từ 3,86 triệu đồng/tháng lên 4,14 triệu đồng/tháng (tăng 280.000 đồng, 7,3%); Vùng IV tăng từ 3,45 triệu đồng/tháng lên 3,7 triệu đồng/tháng (tăng 250.000 đồng, 7,2%)./.

    https://www.vietnamplus.vn/luong-toi-thieu-vung-nam-2026-tang-cao-nhat-350000-dongthang-post1049113.vnp

    Các tổ chức không biết, không nói về hàng giả do thiếu bản lĩnh hoặc bị vô hiệu hóa

    Bình Minh / Vietnam Net

    Bàn về vấn nạn hàng giả, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến trăn trở: “Các tổ chức chính trị - xã hội có hết, mặt trận có hết, mà không biết, không nói thì chỉ có 2 lý do, thứ nhất là bị vô hiệu hóa, thứ hai là thiếu bản lĩnh".

    Hội nghị lần thứ 4 Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam khóa 10 diễn ra sáng nay với nhiều ý kiến tâm huyết, thể hiện sâu sắc tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.

    Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: Nguyễn Hải 

    Ông Trần Việt Anh, Chủ tịch Hiệp hội Tái chế Việt Nam gióng hồi chuông cảnh báo về vấn nạn hàng giả, hàng kém chất lượng, không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, niềm tin đến người tiêu dùng. Đó là sự lừa dối trắng trợn, làm xói mòn đạo đức kinh doanh, làm ảnh hưởng đến uy tín sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế.

    Theo số liệu của Ban chỉ đạo 389 Quốc gia, trong 6 tháng đầu năm 2025, các đơn vị địa phương đã xử lý 50.000 vụ buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; thu nộp ngân sách Nhà nước được 6.500 tỷ đồng.

    Ông Việt Anh đề xuất, Mặt trận Tổ quốc cần phát động phong trào: “Nói không với hàng gian, hàng giả”.

    Tiếp thu ý kiến nêu trên, ông Đỗ Văn Chiến, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam gợi ý chọn từ phù hợp hơn: “Nói không với hàng giả, hàng kém chất lượng”.

    Ông Chiến đồng tình rằng, cần phải tạo dư luận trong phạm vi toàn quốc, từ miền ngược đến miền xuôi, trong các giới, các tầng lớp nhân dân, phải kịch liệt lên án hàng giả, hàng kém chất lượng. Những loại hàng đó tác động đến vấn đề xã hội và cả sức khỏe con người. 

    “Đúng là phải có tiếng nói mạnh mẽ của MTTQ Việt Nam cũng như các tầng lớp nhân dân. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nói như này, tôi nghiệm thấy đúng: Không phải 1 cân, không phải 1 lạng mà là hàng trăm tấn hàng giả, hàng kém chất lượng; không phải làm 1 ngày mà làm hàng tháng, làm nhiều năm. Ở những nơi đấy, các tổ chức chính trị - xã hội, mặt trận có hết, mà chúng ta không biết, không nói thì chỉ có 2 lý do, thứ nhất là chúng ta bị vô hiệu hóa, thứ hai là thiếu bản lĩnh, không dám nói”, ông Chiến nêu quan điểm.

    Chỉ có 6/30 hội quần chúng có tổ chức ở 34 tỉnh, thành

    Về hoạt động của các tổ chức hội, ông Đỗ Văn Chiến chia sẻ: “Đây là nội dung hiện nay còn nhiều tâm trạng, mừng có, không vui có, lo lắng có”.

    Trong tổng số 30 hội quần chúng được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ xuống dưới tỉnh thì hiện chỉ có 6 hội quần chúng là có tổ chức ở 34/34 tỉnh, thành phố, gồm: Liên minh Hợp tác xã, hội Khuyến học Việt Nam, hội Người cao tuổi, hội Luật gia, hội Chữ thập đỏ, hội Cựu thanh niên xung phong. Còn lại có những tỉnh chỉ có 2 hội. 

    Theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự đảm bảo kinh phí hoạt động thì có những hội là điều lệ của Trung ương khác, điều lệ ở cơ sở khác, không chung điều lệ.

    Vậy nên không thể làm một mô hình thống nhất toàn quốc được.

    “Bộ Chính trị đã giao và chúng tôi sẽ nghiên cứu đề án này, đề ra những chính sách rất cụ thể, dựa trên chỉ đạo của Tổng Bí thư: Tất cả mọi người dân trên đất nước Việt Nam đều phải tập hợp vào một tổ chức nào đó để khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần khát khao cống hiến của người ta, đóng góp xây dựng đất nước, đem lại hạnh phúc cho người dân”, ông Chiến chia sẻ thêm.

    10 nhiệm vụ trọng tâm của MTTQ Việt Nam

    Về nhiệm vụ 6 tháng cuối năm và năm 2026, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao cho Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương 10 đầu việc. 

    Một là quyết định tổ chức lại các tổ chức đảng trực thuộc tại các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ, phù hợp, đồng bộ với mô hình sau khi tổ chức, sắp xếp lại (hoàn thành trước ngày 15/7/2025).

    MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân không trực tiếp làm ra tiền của, không trực tiếp xây nên những công trình đồ sộ, nguy nga, hiện đại, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận làm nòng cốt để xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, kết nối, đồng hành cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam Đỗ Văn Chiến 

    Hai là lãnh đạo, chỉ đạo Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan khẩn trương triển khai chương trình tập huấn cho đoàn viên, thanh niên là sinh viên chuyên ngành liên quan đến công nghệ thông tin của các trường đại học, cao đẳng, thanh niên tình nguyện về dịch vụ công trực tuyến, giải quyết thủ tục hành chính, đưa về hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, nhân dân các xã, phường, đặc khu, nhất là vùng xa, vùng khó khăn khi vận hành bộ máy trong thời gian đầu thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (hoàn thành trước ngày 31/7/2025).

    Ba là tham mưu, rà soát, điều chỉnh, bổ sung chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức trực thuộc Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (hoàn thành trước ngày 31/7/2025).

    Bốn là chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương hướng dẫn tổ chức Đại hội của các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng cấp Trung ương, bảo đảm thiết thực, tiết kiệm sau khi tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam (hoàn thành trước ngày 31/7/2025).

    Năm là lãnh đạo, chỉ đạo việc hướng dẫn các địa phương thực hiện sắp xếp các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ trực thuộc MTTQ Việt Nam cấp tỉnh, cấp xã (hoàn thành trước ngày 30/9/2025).

    Sáu là lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục tổ chức sắp xếp lại các hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ vào hoạt động trực thuộc MTTQ Việt Nam, theo hướng dẫn giảm số lượng hội, tinh gọn tổ chức bộ máy bên trong, hoạt động thiết thực, hiệu quả (hoàn thành trước ngày 30/9/2025).

    Bảy là lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan báo chí trực thuộc UBTƯ MTTQ Việt Nam, đảm bảo quản lý thống nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động theo hướng tinh gọn tối đa, giảm số lượng các cơ quan báo chí, tạp chí, chỉ duy trì các đơn vị thực sự cần thiết (hoàn thành trước ngày 30/9/2025).

    Tám là lãnh đạo, chỉ đạo việc chuẩn bị Đại hội MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương sau Đại hội Đảng toàn quốc và bầu cử đại biểu Quốc hội.  

    Chín là lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn về quy định thi hành Điều lệ MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, chuyên môn nghiệp vụ, quy trình, hoàn tất thủ tục về công tác tổ chức Mặt trận, công đoàn, cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên, thiếu niên nhi đồng… bằng hình thức trực tuyến (thực hiện thường xuyên).

    Mười là lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân đồng thuận, thống nhất, có trách nhiệm cao với xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân sau khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính, sắp xếp, tổ chức các đơn vị, bộ máy, các cơ quan, đơn vị, hệ thống chính trị gắn với xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp (thực hiện thường xuyên).

    Chủ tịch Đỗ Văn Chiến nêu rõ, MTTQ Việt Nam, các đoàn thể nhân dân không trực tiếp làm ra tiền của, không trực tiếp xây lên những công trình đồ sộ, nguy nga hiện đại nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, MTTQ các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận làm nòng cốt để xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, kết nối, đồng hành cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

    https://vietnamnet.vn/khong-biet-khong-noi-ve-hang-gia-do-thieu-ban-linh-hoac-bi-vo-hieu-hoa-2420236.html

    Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025 

    11/7/2025/  Tài chính - ngân hàng 

    Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên hoặc ít nhất như kịch bản cơ sở (7,5-7,7%) trong cả năm 2025, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đã đưa ra 5 kiến nghị đáng chú ý. 

    TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV 

    Nhóm chuyên gia

    LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025. Chúng tôi xin đăng tải nguyên văn báo cáo để quý độc giả tiện theo dõi.

    --------

    Bối cảnh kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm 2025

    Kinh tế thế giới (KTTG) 6 tháng đầu năm 2025 tăng trưởng chậm, với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đặc biệt là chính sách thuế của Tổng thống Mỹ D.Trump tác động tiêu cực đến thương mại - đầu tư toàn cầu; trong khi các căng thẳng địa chính trị tại Ukraina, Trung Đông… vẫn dai dẳng, thậm chí bùng phát trong tháng 6; các thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu vẫn khó lường, làm tăng nguy cơ an ninh lương thực, an ninh năng lượng. Vì vậy, trong các báo cáo cập nhật nhất, hầu hết các tổ chức quốc tế (như WB, IMF, OECD...) đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu khoảng 0,3-0,4 điểm % so với dự báo trước đó, ở mức khoảng 2,3-2,8%, hoặc có thể về mức 2,1-2,5% nếu việc đàm phán thuế đối ứng của Mỹ và các nước không đạt kết quả khả quan. WTO (6/2025) cũng dự báo thương mại toàn cầu giảm mạnh, về mức 0,1% do tình trạng bất ổn trong chính sách thuế quan của Mỹ; trong khi WB (6/2025) dự báo khối lượng thương mại toàn cầu chỉ tăng 1,8% năm 2025 (từ mức 3,4% năm 2024). Điểm sáng là lạm phát tiếp tục giảm về gần mức mục tiêu của nhiều nước (dù có chậm dần); cùng với sự chậm lại của đà phục hồi kinh tế khiến ngân hàng trung ương (NHTW) nhiều nước tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng.

    Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 đạt nhiều kết quả khả quan

    Một là, Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, sắp xếp lại giang sơn, vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, quyết liệt triển khai "bộ tứ trụ cột", chủ động ứng phó với chính sách thuế quan của Mỹ, quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên và giữ vững ổn định vĩ mô

    Với quyết tâm chính trị cao, tinh thần khẩn trương, quyết liệt, Đảng và Nhà nước đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiều quyết sách mang tính lịch sử về đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức - bộ máy, hoàn thiện việc sáp nhập tỉnh, thành phố và vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp từ ngày 1/7/2025, tạo tiền đề đưa đất nước bước vào "kỷ nguyên mới". Trong 6 tháng đầu năm và đặc biệt kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV đã xem xét và thông qua số lượng Luật, Nghị quyết nhiều nhất từ trước đến nay, nổi bật là Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại DN, Luật KHCN và đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi), Luật các TCTD (sửa đổi); Nghị quyết về trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM và Đà Nẵng; Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013; các Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù tạo đột phá trong triển khai "bộ tứ trụ cột", phát triển nhà ở xã hội, trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do…v.v. Chính phủ ban hành nhiều Nghị định, Nghị quyết, văn bản chỉ đạo nhằm quyết tâm đạt được mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên, ổn định vĩ mô và đảm bỏ các cân đối lớn của nền kinh tế; thực hiện đột phá thể chế, tinh gọn tổ chức – bộ máy, sáp nhập tỉnh, thành phố; đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền; phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại…v.v.

    Chính sách tài khoá (CSTK) tiếp tục được điều hành theo hướng mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm. Theo đó, Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, phấn đấu tỷ lệ giải ngân đạt 100% kế hoạch; tăng cường mở rộng cơ sở thuế, thu hồi nợ đọng thuế, tăng nguồn lực cho đầu tư phát triển; phấn đấu nâng hạng thị trường chứng khoán năm 2025 (Nghị quyết 154/NQ-CP ngày 31/5/2025). Các chính sách về miễn, giảm, gia hạn thuế, phí tiếp tục được triển khai (gần tương tự như hồi dịch Covid-19); chính thức miễn và hỗ trợ học phí…v.v.

    Chính sách tiền tệ (CSTT) được điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với CSTK; phấn đấu tăng trưởng tín dụng cả năm đạt khoảng 16%; tiến tới năm 2026 điều hành tăng trưởng tín dụng mang tính thị trường hơn và bỏ việc phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD (Công điện số 104/CĐ-TTg ngày 6/7/2025); các TCTD đẩy mạnh các chương trình tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên như nông, lâm, thuỷ sản; phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người dưới 35 tuổi, hỗ trợ liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao vùng ĐBSCL; phát triển hạ tầng và công nghệ số, kích cầu tiêu dùng; tăng cường xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu phát sinh và đổi mới cách thức quản lý thị trường vàng…v.v.

    Về ứng phó với chính sách thuế quan của Mỹ, lãnh đạo Đảng và Chính phủ đã chủ động, tăng cường trao đổi, tiếp xúc ở nhiều cấp, nhiều kênh...

    Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025- Ảnh 1.

    Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025 đạt nhiều kết quả khả quan (ảnh minh họa)

    Hai là, GDP 6 tháng đầu năm 2025 tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 15 năm; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, với GDP tăng 7,52% so với cùng kỳ năm trước với sự phục hồi của các động lực cả phía cung và cầu.

    Về phía cung, công nghiệp và xây dựng tăng 8,33%, cao nhất trong 3 khu vực và là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 7 năm, đóng góp 3,08 điểm % (40,9% trong mức tăng trưởng chung); tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với mức tăng trưởng 8,14% và đóng góp cao nhất (3,54 điểm % hay 47%) vào mức tăng trưởng chung. Đồng thời, lĩnh vực nông - lâm - thủy sản tiếp tục là bệ đỡ vững chắc của nền kinh tế, duy trì mức tăng trưởng khá 3,84%, cao nhất trong vòng 7 năm, đóng góp 0,43 điểm % (tương đương 5,76%) vào mức tăng trưởng chung. 

    Về phía cầu, tiêu dùng cuối cùng và tích lũy tài sản tăng trưởng cao nhất so cùng kỳ trong vòng 8 năm. Tiêu dùng cuối cùng tăng 7,95%, đóng góp 6,33 điểm % (84,2%) và tích lũy tài sản đóng góp 3,02 điểm % (40,18%) vào mức tăng trưởng GDP, nhờ tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 9,8%, tiệm cận mức trước dịch (cùng kỳ 6T/2018-2019, tăng bình quân 10,2%), đặc biệt đầu tư công tăng 19,8%, cao gấp 1,12 lần mức trước dịch Covid-19; đầu tư tư nhân tăng 7,5%, gấp 1,2 lần bình quân 6T giai đoạn 2020-2024 (6,1%), nhưng còn thấp hơn so với trước dịch Covid-19.

    Xuất khẩu ròng hàng hóa trong 6T/2025 đạt 7,63 tỷ USD, cao gấp 2,5 lần mức trước dịch. Trong đó, xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện (chiếm 21,7% tổng kim ngạch xuất khẩu) tăng 40%, cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung và là mức tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 8 năm nhờ hưởng lợi từ sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, công nghệ số, công nghiệp chế biến - chế tạo trong nước (chỉ số sản xuất (IIP) của công nghiệp chế biến - chế tạo tăng 11,1%, cao hơn tốc độ tăng trưởng IIP chung 9,2% và là mức cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 4 năm). Một lý do khác là nhiều doanh nghiệp tranh thủ cơ hội trong 90 ngày tạm đình chỉ mức thuế đối ứng cao.

    Thu hút và giải ngân FDI tăng tích cực, với vốn FDI đăng ký đạt 21,52 tỷ USD, tăng mạnh 32,6% so với cùng kỳ; vốn FDI giải ngân ước đạt 11,72 tỷ USD (tăng 8,1%), là mức giải ngân cao nhất trong 5 năm. 

    Tiêu dùng tiếp tục phục hồi, du lịch tăng mạnh, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 6T/2025 tăng 9,3%, nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh và tiêu dùng cá nhân phục hồi. Trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam đã đón 10,66 triệu lượt khách quốc tế, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2024, 77,5 triệu lượt khách nội địa, tăng 16,5%), giúp doanh thu du lịch lữ hành tăng 23,2% và dịch vụ lưu trú - ăn uống tăng 14,7% so cùng kỳ.

    Ba là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 6T/2025 tăng 3,27%, lạm phát cơ bản tăng 3,16% so với cùng kỳ năm 2024, thấp hơn mức tăng của lạm phát tổng thể (3,27%), chủ yếu là cung tiền tăng cao (7,25% so đầu năm) nhưng vòng quay tiền còn chậm (chỉ ở mức 0,62 lần, thấp hơn mức 0,65 lần của cùng kỳ năm 2024). 

    Bốn là, lãi suất cho vay giảm nhẹ, tăng trưởng tín dụng khởi sắc: lãi suất cho vay có xu hướng giảm nhẹ khi các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục đẩy mạnh các gói tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng. Theo NHNN, lãi suất cho vay bình quân của các khoản cho vay mới ở mức là 6,38%/năm, giảm khoảng 0,6% so với cuối năm 2024. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 6/2025 đạt 8,3% so với cuối năm 2024, cao hơn so với mức 6,52% cuối tháng 5/2025 và cao hơn mức tăng huy động vốn (+6,57%) và là mức cao nhất so với cùng kỳ 5 năm khi NHNN tiếp tục nới lỏng, linh hoạt chính sách tiền tệ, giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 16% ngay từ đầu năm để các TCTD có thể chủ động hơn và cung ứng các gói tín dụng ưu đãi.

    Năm là, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tăng mạnh nhờ đà tăng tích cực của sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu: thu NSNN trong 6T/2025 ước đạt 67,7% dự toán năm, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ sự phục hồi mạnh của hoạt động sản xuất, tiêu dùng trong nước và xuất - nhập khẩu. Chi NSNN ước đạt 43,2% dự toán năm, tăng 38,5% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ giải ngân đầu tư công tăng tích cực (tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2024).

    Bốn rủi ro, thách thức chính trong nửa cuối năm 2025 

    Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài gia tăng, bao gồm: (i) rủi ro địa chính trị, chiến tranh thương mại - công nghệ gia tăng, khiến giá cả hàng hóa chịu áp lực tăng, lạm phát, lãi suất giảm chậm hơn so với dự kiến, từ đó tạo áp lực đối với lạm phát, lãi suất và tỷ giá của Việt Nam; (ii) một số nước giảm đà tăng trưởng (nhất là Mỹ, Trung Quốc, EU…), khiến tăng trưởng toàn cầu chậm lại rõ rệt như nêu trên; (iii) lạm phát, lãi suất dù giảm nhưng còn ở mức cao, neo lâu, khiến đà phục hồi khó khăn hơn, rủi ro nợ công và tư còn cao; (iv) nguy cơ rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng và thiên tai, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu cực đoan vẫn thường trực.

    Hai là, hoạt động doanh nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc hơn: trong 6T/2025, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 13,3% và số doanh nghiệp hoàn tất giải thể tăng 23,3% so với cùng kỳ do rủi ro chiến tranh thương mại - công nghệ, các vướng mắc về pháp lý dự án còn chậm giải quyết, chi phí đầu vào (giá điện, logistics…) ở mức cao, đơn hàng thiếu bền vững, biên lợi nhuận giảm…, nhưng đã có dấu hiệu khởi sắc hơn khi lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng mạnh, nhất là từ khi Nghị quyết 68/NQ-TW có hiệu lực từ đầu tháng 5 năm 2025.

    Ba là, tỷ giá, nợ xấu tăng dù trong tầm kiểm soát: về tỷ giá, tính đến hết ngày 30/6, tỷ giá liên ngân hàng tăng 2,5%, tỷ giá trung tâm tăng 2,94% so với đầu năm, dù chỉ số đồng USD (DXY) giảm 10,7% trên thị trường quốc tế và VND mất giá với hầu hết các ngoại tệ của các nước trong khu vực Châu Á. Về nợ xấu, đến hết tháng 2/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm 5 NHTM thuộc diện kiểm soát đặc biệt, trong đó có 4/5 NHTM đã được chuyển giao) ở mức 1,88%, giảm so với mức 1,93% tại thời điểm cuối năm 2024. Tuy nhiên, nợ xấu của 27 ngân hàng niêm yết cuối quý 1/2025 ở mức 2,2%, tăng so với mức 1,9% cuối năm 2024, trong khi đó tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm từ mức 91% cuối năm 2024 xuống còn 80% cuối quý 1/2025 cho thấy khả năng bù đắp rủi ro của các TCTD đang suy giảm. 

    Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025- Ảnh 2.

    Hoạt động doanh nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc hơn (ảnh minh họa)

    Bốn là, xuất nhập khẩu (XNK) tăng chậm lại; đầu tư tư nhân và tiêu dùng vẫn thấp hơn mức trước dịch Covid-19: XNK trong 6T/2025 tăng 16,1% so với cùng kỳ, nhưng thấp hơn mức tăng cùng kỳ 2024 (16,8%) và riêng trong tháng 6 giảm 3,2% so với tháng trước, thặng dư thương mại hàng hóa chỉ bằng 62,8% với cùng kỳ 2024, gây áp lực nhất định lên cán cân thương mại tổng thể, dự trữ ngoại hối và tỷ giá. Chỉ số PMI sản xuất tháng 6/2025 đạt 48,9 điểm, thấp hơn mức 49,8 điểm của tháng 5 và ở mức thu hẹp tháng thứ ba liên tiếp do số lượng đơn đặt hàng mới thiếu bền vững như nêu trên. Tăng trưởng vốn đầu tư tư nhân đạt 7,5% trong 6T/2025, cao hơn cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước dịch (trong 6T/2018-2019, tăng khoảng 16%) và thấp nhất trong 3 khu vực (khu vực Nhà nước và khu vực FDI lần lượt tăng 19,8% và 10,6%). Về sức cầu tiêu dùng, nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 7,2% so với cùng kỳ, bằng khoảng 84% mức tăng trung bình trước dịch 2018-2019 (9%), doanh thu du lịch lữ hành dù tăng cao hơn so với mức trước dịch song vẫn thấp hơn cùng kỳ năm 2024 (37,1%); mức tăng doanh thu lưu trú - ăn uống (10,5%) khá thấp so với mức tăng về lượng khách du lịch quốc tế (tăng 20,7%), cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm hơn của du khách...v.v.

    Dự báo kinh tế Việt Nam cả năm 2025

    Về triển vọng, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều rủi ro, bất ổn (đặc biệt là "cú sốc" thuế quan của Mỹ), lạm phát và lãi suất có thể giảm chậm hơn dự kiến, tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, theo Nhóm Nghiên cứu, kinh tế của Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức trong nửa cuối năm 2025 và kể cả năm 2026. Tuy nhiên, kỳ vọng việc đàm phán thuế quan (dự kiến mức thuế 20% từ ngày 1/8, thấp hơn mức dự kiến 46% và có thể thấp hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh xuất khẩu, thu hút FDI), cùng với nhiều giải pháp khác, Việt Nam vẫn giữ được lợi thế thương mại và thu hút FDI so với các quốc gia khác.

    - Tăng trưởng GDP: với kết quả tăng trưởng khả quan của 6 tháng đầu năm và kỳ vọng kết quả đàm phán thuế quan khả quan như nêu trên cùng với nỗ lực cải cách nội địa; các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, làm mới và phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố, dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt 7,5-7,7% cả năm 2025 (kịch bản cơ sở), tăng trưởng GDP hai quý cuối năm cần đạt khoảng 8-8,2%, hoặc có thể cao hơn, khoảng 7,8-8,1% (kịch bản tích cực). 

    Bức tranh kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2025- Ảnh 3.

    - Về lạm phát: áp lực lạm phát có thể gia tăng mạnh hơn trong 6 tháng cuối năm do cả yếu tố chi phí đẩy (giá hàng hóa nhập khẩu cao hơn do thuế quan của Mỹ chính thức áp đặt, chi phí sản xuất - kinh doanh còn tăng, chủ yếu là tiền thue đất, lương nhân công tăng…) và yếu tố cầu kéo (tăng trưởng tín dụng ước đạt 15-16%, vòng quay tiền ở mức 0,7-0,8 lần). Tuy nhiên, CPI bình quân cả năm 2025 dự báo tăng 4-4,5%, cao hơn năm 2024 (3,63%) song vẫn dưới mức mục tiêu cho phép của Quốc hội (4,5-5%) và trong tầm kiểm soát nhờ tác động cộng hưởng của các yếu tố hỗ trợ (như đà hạ nhiệt của lạm phát toàn cầu dù giảm chậm hơn dự kiến), nguồn cung hàng hóa - dịch vụ thiết yếu trong nước được bảo đảm; tỷ giá tăng trong tầm kiểm soát, lãi suất cơ bản ổn định và phối hợp chính sách ngày càng tốt hơn.

    Năm kiến nghị

    Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên hoặc ít nhất như kịch bản cơ sở (7,5-7,7%) trong cả năm 2025 như nêu trên, Nhóm Nghiên cứu có 5 kiến nghị như sau:

    Một là, thực hiện hiệu quả chủ trương đột phá thể chế, vận hành hiệu quả bộ máy, địa phương sau sáp nhập, tinh gọn; đẩy mạnh chống lãng phí, cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh: (i) Khẩn trương ban hành các quy định, hướng dẫn các Luật, Nghị quyết mới được QH thông qua tại các kỳ họp từ đầu năm 2025 đến nay, đồng thời đẩy nhanh hoàn thiện thể chế cho các động lực tăng trưởng mới như cơ chế sandbox cho kinh tế tuần hoàn, đẩy nhanh thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh; Nghị định thí điểm thị trường tài sản số; thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, Quỹ phát triển nhà ở; Quỹ đầu tư mạo hiểm…); (ii) Bố trí kinh phí và nguồn lực để triển khai quyết liệt, hiệu quả "bộ tứ trụ cột" theo 4 nghị quyết của Bộ Chính trị, có đôn đốc, sơ kết và tháo gỡ kịp thời; (iii) Đẩy mạnh triển khai Đề án 06 và chia sẻ dữ liệu, quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa, số hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ một cách thực chất, đồng bộ; (iv) Đẩy mạnh chống lãng phí, nhất là 2.887 dự án tồn đọng, vướng mắc với số vốn đầu tư khoảng 235 tỷ USD như Chính phủ đã thống kê, báo cáo; khẩn trương có phương án, cơ chế, chính sách về sử dụng, phát huy hiệu quả các trụ sở cơ quan dôi dư sau tinh gọn, sáp nhập…v.v.

    Hai là, chủ động, linh hoạt thích ứng với chính sách thuế quan của Mỹ, coi đây là cơ hội tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng tính tự lực, tự chủ, tự cường, trong đó: (i) sớm ban hành Nghị định về kiểm soát thương mại chiến lược, Nghị định về xuất xứ hàng hóa, cùng với đẩy mạnh chống hàng nhái, hàng giả, tăng minh bạch xuất xứ hàng hóa, thiết bị, vật liệu...; (ii) tăng nhập khẩu từ Mỹ, nhất là những sản phẩm mà Mỹ có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu (như chất bán dẫn, khí LNG, máy bay, thiết bị hàng không, dược phẩm, vật tư y tế, nông sản…v.v.); (iii) khai thác tốt hơn các FTA đã có; thúc đẩy các FTA mới với các thị trường nhiều tiềm năng như Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latin, Trung Á… nhằm đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng; (iv) tăng cường công tác truyền thông, hỗ trợ để bản thân các doanh nghiệp có thể tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, nhất là về xuất xứ hàng hóa, chuỗi cung ứng và yếu tố môi trường, lao động, an toàn thực phẩm…v.v.

    Ba là, triển khai có hiệu quả các chính sách kích cầu tiêu dùng: (i) thanh toán đầy đủ, kịp thời, thủ tục nhanh gọn các khoản phụ cấp, chế độ đặc thù cho cán bộ, công - viên chức, người lao động nghỉ hưu trước tuổi theo chủ trương tinh gọn bộ máy của Đảng và Nhà nước; (ii) kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện công cuộc phòng chống hàng nhái, hàng giả; nghiên cứu sửa đổi Nghị định 70/2025/NĐ-CP cho phù hợp; (iii) sớm ban hành Luật thuế TNCN sửa đổi, trong đó cần nâng mức giảm trừ gia cảnh phù hợp; (iv) xây dựng và triển khai "Chương trình kích cầu du lịch" nội địa và quốc tế; sớm cho phép thử nghiệm kinh tế đêm ở một số địa điểm phù hợp và hoàn thiện cơ chế, chính sách, cách thức quản lý kinh tế đêm...; (v) Khuyến khích các TCTD triển khai các gói tín dụng tiêu dùng lãi suất ưu đãi cho công nhân, nông dân, sinh viên, người lao động trong cả khu vực chính thức và phi chính thức…v.v. 

    Bốn là, nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách, nhất là chính sách tiền tệ, tài khóa và chính sách vĩ mô khác: (i) có lộ trình phù hợp khi tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý; luôn đảm bảo cung ứng đầy đủ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; bình ổn tỷ giá, thị trường vàng, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần tăng hiệu quả của các chương trình kích cầu tiêu dùng; (ii) xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém (nhất là Ngân hàng SCB), tăng vốn cho các TCTD Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao; (iii) Phát triển cân bằng thị trường tài chính (nhất là thị trường trái phiếu, cổ phiếu, quỹ đầu tư), quyết tâm nâng hạng thị trường chứng khoán trong năm 2025; sớm ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về thị trường vàng; triển khai giải pháp cụ thể phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, hiệu quả; chú trọng kiểm soát rủi ro hệ thống tài chính – bất động sản, rủi ro an ninh mạng, thông tin – dữ liệu.

    Cuối cùng, quan tâm nâng cao chất lượng tăng trưởng, trong đó có chất lượng đầu tư công (nhất là các công trình trọng điểm) và cơ cấu chi tiêu công (chi nhiều hơn cho giáo dục, y tế và KHCN, hạ tầng số...); sớm thành lập Ủy ban năng suất quốc gia, triển khai các chiến dịch về tăng năng suất, chú trọng nâng cao trình độ, chất lượng lao động nhằm ứng dụng và làm chủ KHCN, đóng góp ngày càng cao cho tăng trưởng; có đề án nâng cao sức chống chịu, năng lực tự chủ, tự cường của nền kinh tế. Theo đó, kiến nghị Lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm ban hành Nghị quyết đột phá, đổi mới về giáo dục và y tế, kinh tế Nhà nước, - các yếu tố then chốt đảm bảo phát triển nhanh, hài hòa và bền vững./. 

    H. Kim (Ghi theo Báo cáo của Nhóm tác giả)

    https://cafef.vn/buc-tranh-kinh-te-viet-nam-6-thang-dau-nam-va-du-bao-ca-nam-2025-188250711101618713.chn


    Không có nhận xét nào