Kỳ 1: Khi giá nhà đất và chi phí sinh hoạt là ‘thuốc tránh thai’ hữu hiệu
Kỳ 2: Chính sách liệu đã chính xác?
Lê Giang/Tạp chí Luật Khoa
08/8/2025
Ảnh minh họa: Thiên Tân/Luật Khoa.
Các báo cáo gần đây cho biết, giá nhà liên tục leo thang tại nhiều đô thị.
Đến hết Quý 2/2025, giá căn hộ bình quân ở Hà Nội rơi vào khoảng 76 triệu đồng/m². Mức giá trung bình ở TP. HCM là 77-82 triệu đồng/m² (tăng khoảng 48%), trong khi tại Đà Nẵng là 66,4 triệu đồng/m² (tăng khoảng 70%) so với thời điểm sáu năm về trước.
Trong khi đó, mức thu nhập bình quân của người dân lao động hiện nay tỏ ra quá sức để gánh vác các chi phí sinh hoạt hằng tháng, chứ chưa bàn đến việc tích lũy để mua nhà.
Theo điều tra của phóng viên Luật Khoa tạp chí, mức thu nhập bình quân của lao động phổ thông tại Hà Nội là 6-8 triệu đồng/tháng. Trong khi, mức chi phí sinh hoạt trung bình hằng tháng lên đến 8-9 triệu đồng.
Giữa “cơn bão giá” của thị trường bất động sản và chi phí sinh hoạt, câu hỏi đặt ra là liệu người dân có còn “dám” sinh con? Xu hướng hạn chế sinh sản như hiện nay sẽ dẫn đến những hệ lụy gì, và liệu nhà nước đã vào cuộc thích đáng?
“Khi giá nhà đất và chi phí sinh hoạt trở thành liều ‘thuốc tránh thai’ hiệu quả” trong những năm qua, xã hội Việt Nam đã tiến gần bước ngoặt “dân số già”. Trước nguy cơ về biến động xã hội và khủng hoảng thiếu về lao động, Nhà nước đã có những chính sách gì, và liệu có thỏa đáng?
Người trẻ có được tự do lựa chọn việc sinh con ?
Trên khắp các mặt báo nhà nước, việc sinh con được tuyên truyền và thiêng liêng hóa như là quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng đối với chính mình hay thậm chí là xã hội.
Báo chí và dư luận thường phê phán rằng việc các cặp đôi “e ngại” hay “e sợ” kết hôn và sinh con khiến cho tỷ lệ sinh giảm, là nguyên nhân đưa đến việc thiếu nguồn lực lao động trong xã hội, hay trầm trọng hơn, còn dẫn đến những hệ lụy xấu về an sinh, an ninh, thậm chí là môi trường.
Tuy nhiên, nếu chỉ vội vàng lên án, kết tội những cá nhân từ chối làm cha mẹ, mà không xét đến hoàn cảnh sống thực tế của họ, sẽ là một cái nhìn bất công.
Vấn đề cần đặt ra và xem xét kỹ càng, đó là: liệu người trẻ có thực sự có quyền chủ động trong việc lựa chọn kết hôn và sinh con hay không? Hay chính hiện thực đời sống mới là thành trì cản bước họ ra quyết định lập gia đình?
Khi giấc mơ tạo dựng “mái nhà” trở nên xa vời
Thị trường bất động sản tại Việt Nam đang trải qua một đợt tăng trưởng chóng mặt, khiến số tiền mà người dân cần bỏ ra để sở hữu một bất động sản, đặc biệt là ở những thành phố lớn, ngày càng lên cao.
Các báo cáo cho biết, nửa đầu năm nay, giá nhà liên tục leo thang tại nhiều đô thị lớn khiến thị trường xuất hiện nguy cơ tạo “bong bóng bất động sản”.
Báo cáo của Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam (VARS) cho thấy, giá chung cư tại Hà Nội đã tăng đến 87% trong vòng sáu năm, tương đương mỗi năm tăng gần 15%.
Nguồn cung nhà ở cũng ngày càng lệch pha khi phân khúc cao cấp chiếm tới 62% tổng lượng chào bán cả nước, trong khi căn hộ bình dân trở nên khan hiếm, chỉ chiếm chưa tới 4-7% tại Hà Nội và TP. HCM.
Báo cáo còn chỉ ra rằng, trái với đà tăng chóng mặt của giá bất động sản, thu nhập bình quân của người lao động tăng chỉ khoảng 10%, hiện đạt trung bình 8,3 triệu đồng/tháng. Điều này chứng tỏ rằng khả năng tiếp cận và thỏa mãn nhu cầu về nhà ở của đa số lao động ngày càng trở nên xa vời, khi tồn tại một khoảng cách quá lớn giữa giá cả thị trường so với số tiền họ có thể dành ra để mua cho mình một mái nhà che nắng, che mưa. Đó là chưa kể, họ còn trang trải hàng loạt chi phí khác, thậm chí, còn phải nghĩ đến chi phí cho việc sinh đẻ.
Không chỉ giá bán mà giá thuê bất động sản cũng không chịu nằm ngoài làn sóng leo thang. Theo ghi nhận của báo Lao Động, giá thuê nhà trọ, “chung cư mini” tại Hà Nội đã đồng loạt tăng từ giữa tháng Sáu, nhà trọ giá rẻ tăng trung bình 10%, trong khi chung cư mini tăng từ 10% đến 15%.
Chưa kể, giá điện và nước tại các cơ sở này vốn dĩ đã bị đội chi phí vô hình của các chủ cho thuê, nay tiếp tục có lý do tăng thêm khi EVN thông báo tiếp tục tăng giá điện từ tháng 5/2025.
Theo tìm hiểu của phóng viên Luật Khoa tạp chí về nhu cầu nhà ở và nguồn cung-cầu nhà ở cho thấy:
Số lượng các dự án nhà ở điển hình như của Vingroup, Sun Group, Novaland, v.v. vẫn tăng trưởng mạnh trong 3 năm gần đây, chưa có dấu hiệu dừng lại. Hoạt động đầu tư, “lướt sóng” các căn hộ chung cư hoạt trong các dự án trải dài từ Bắc đến Nam tuy đã chậm lại nhưng các mặt hàng này không có dấu hiệu sẽ giảm giá trong tương lai.
Mặt khác, giá nhà đất ở các khu vực ngoại thành thủ đô (các quận, huyện cũ: Bắc Từ Liêm, Gia Lâm, Tây Hồ) vẫn có dấu hiệu tiếp tục tăng mạnh, từ mức 100-200 triệu/m² năm 2023, đến nay đã có giá 300-400 triệu/m². Đây là giá của những căn nhà trong ngõ, ngách.
Ở Hưng Yên, quê nhà của tổng bí thư Tô Lâm, giá nhà đất đã đồng loạt tăng kể từ khi sau sáp nhập, thậm chí là vượt cả giá nhà đất ở Hà Nội với chênh lệch lên tới vài chục triệu/m². Tương tự các tỉnh như Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu (cũ) hay các tỉnh Tây Nam Bộ cũng ghi nhận giá nhà đất tăng kể từ ngày 1/7.
Tiền lương và chi phí sinh hoạt chặn đứng ước mơ làm cha mẹ
Việc mua nhà có thể là tính toán dài hạn, thậm chí, người ta vẫn có thể chọn giải pháp ở thuê khi giá nhà vượt tầm với. Trong khi, bài toán chi tiêu sinh hoạt là một nan đề được đặt ra mỗi ngày mà không ai có thể né tránh.
Chi phí sinh hoạt luôn là nỗi trăn trở của bất kỳ ai khi tham gia vào thị trường lao động. Nói cách khác, đây là một rào cản vô hình kìm hãm sự tự do lựa chọn được hưởng một cuộc sống sung túc và đầy đủ. Bởi, công thức dễ thấy là: với cùng một mức lương không đổi, chi phí sinh hoạt càng thấp, người lao động càng có khả năng trang trải đủ đời sống và có thể tích lũy cho các khoản phát sinh khác.
Gánh nặng “cơm, áo , gạo, tiền” sẽ còn chồng chất hơn nữa khi cặp đôi đón thêm “thành viên mới” trong nhà, với hàng loạt phát sinh, đòi hỏi hàng trăm ngàn sự tính toán.
Trong loạt bài về “Sống nhờ lương” đăng trên Luật Khoa tạp chí, tác giả Hiếu Mạnh đã phác họa sự căng bức của những người lao động có mức thu nhập trung bình tại các đô thị lớn, khi phải đối diện với quá nhiều khoản cần chi. Áp lực này càng lớn khi tốc độ tăng của lương bổng không theo kịp đà tăng của vật giá. Tình huống đó đòi hỏi sự tính toán chi li thật kỹ của người lao động trước khi quyết định mua về cho mình bất cứ cái gì, thậm chí, trước khi đón một “thành viên mới” về nhà.
Bảng dưới đây mô tả các khoản chi tiêu bình quân của một người lao động có thu nhập 10 triệu/tháng, tại TP. HCM và Hà Nội:
Ước tính các khoản chi tiêu cơ bản, hằng tháng cho một người lao động phổ thông có thu nhập khoảng 10 triệu đồng ở TP. HCM và Hà Nội (đơn vị: triệu đồng). Nguồn: Hiếu Mạnh/Luật Khoa tạp chí.
Tổng quan cho thấy, một người lao động nếu có thu nhập 10 triệu đồng/tháng và biết tính toán, chắt chiu hết mức có thể đáp ứng chi tiêu cơ bản khi chỉ có một con nhỏ, và gần như không thể có khoảng tích lũy, thậm chí không thể tính đến các nhu cầu cầu giải trí, hội họp.
Mặt khác, các số liệu cũng cho thấy, số tiền còn lại của lương sau khi trừ chi phí tại hai thành phố Hà Nội và TP. HCM không lớn (xấp xỉ 30% tổng thu nhập), trong khi mức dư sau chi tiêu tại TP. HCM có phần nhỉnh hơn Hà Nội. Như vậy, phần chi tiêu cho thân nhân, hay con cái, và dự trù cho các sự cố, các khoản phát sinh thêm, cũng rất eo hẹp.
Từ đó, có thể nhận ra, nếu gia đình có thêm một thành viên thì các chi phí phụ sẽ cao hơn, phát sinh nhiều loại như trong bảng liệt kê: gửi con đi nhà trẻ, tiền ăn, v.v.
Những kỳ vọng đầu tư dài hạn như giáo dục, y tế dù là cho thành viên nào trong gia đình, cũng đều rất hạn chế. Việc có con sẽ trở thành một thách thức kinh tế, không chỉ trong trước mắt, mà còn là dài hạn với các bậc cha mẹ có mức thu nhập trung bình.
Theo phân tích của Stag, chi phí cơ bản để nuôi một đứa trẻ từ lúc sinh ra đến 22 tuổi sẽ rơi vào mức trên 4,2 tỷ đồng. Đây là phép tính với giả định các khoản chi ở mức cơ bản nhất, và dành cho các nhu cầu thiết thân nhất, như chi phí khám chữa bệnh, đồ dùng cá nhân, học phí, ăn uống, v.v.
Chi phí ước tính cho việc nuôi dưỡng một đứa trẻ trong suốt 22 năm, được phân tích theo từng năm. Nguồn: Stag
Tuy nhiên, như tác giả Hiếu Mạnh đã phân tích, việc kiếm tiền và chi tiền cho con chỉ là điều kiện cần, cha mẹ sẽ còn phải tốn nhiều công sức lao động, thì giờ để chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ từ việc ăn uống, bệnh tật, gửi con đi nhà trẻ hay đưa, đón con đi học, v.v. Tất thảy những lao động chăm sóc này tuy không thể quy đổi ra một dạng chi phí hữu hình, nhưng cũng là một dạng chi tiêu, khi họ phải tốn hao, thời giờ, thể lực, thậm chí phải đánh đổi cơ hội thu nhập.
Có thể thấy, bài toán chi tiêu và thách thức giá nhà đã tạo nên thành lũy phong kín tâm nguyện kết hôn, sinh con của nhiều người, thậm chí có người phải đành đoạn từ bỏ ước mơ làm cha mẹ.
Thực trạng ấy đang diễn ra giữa bối cảnh xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn dân số già, với nguy cơ thiếu hụt lực lượng lao động – động lực để phát triển kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội. Trước tình huống đó, Nhà nước đã làm gì và liệu những quyết sách ấy có ổn thỏa?
Nguồn: Khi giá nhà đất và chi phí sinh hoạt là ‘thuốc tránh thai’ hữu hiệu
Dân số già và thách thức khuyến sinh – Kỳ 2: Chính sách liệu đã chính xác?
Lê Giang/Tạp chí Luật Khoa
12/82025
Ảnh minh họa: Thiên Tân/Luật Khoa.
“Khi giá nhà đất và chi phí sinh hoạt trở thành liều ‘thuốc tránh thai’ hiệu quả” trong những năm qua, xã hội Việt Nam đã tiến gần bước ngoặt “dân số già”. Trước nguy cơ về biến động xã hội và khủng hoảng thiếu về lao động, Nhà nước đã có những chính sách gì, và liệu có thỏa đáng?
“Khi giá nhà đất và chi phí sinh hoạt trở thành liều ‘thuốc tránh thai’ hiệu quả” trong những năm qua, xã hội Việt Nam đã tiến gần bước ngoặt “dân số già”. Trước nguy cơ về biến động xã hội và khủng hoảng thiếu về lao động, Nhà nước đã có những chính sách gì, và liệu có thỏa đáng?
“Dân số vàng” – một thời đã xa
Hệ quả từ sự thắt chặt sinh nở đã đưa đến dấu mốc năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số. Đây là một bước ngoặt nhân khẩu học với tốc độ chưa từng có trong lịch sử đất nước.
Theo UNFPA, một nước sẽ bước vào giai đoạn “bắt đầu già” khi dân số cao tuổi chiếm 10% tổng số dân và giai đoạn “già” khi người cao tuổi chiếm 20% tổng số dân. Cũng theo đánh giá mới đây của tổ chức này, Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới.
Chỉ số già hóa (được tính theo phần trăm số người trên 60 tuổi trên số trẻ em dưới 15 tuổi) tăng nhanh từ 2009 với con số ban đầu là 35,5; năm 2014 tăng lên 43,3; năm 2015 là 47,1; năm 2016 là 50,1; năm 2017 là 53,4; đến năm 2018 là 56,9; v.v. và đà tăng chưa có chiều hướng chậm lại.
Cụ thể hơn, báo Nhân Dân ngày 6/6/2023 ghi nhận đến năm 2019, số người từ 60 tuổi trở lên chiếm khoảng 11,9%-12% dân số. Lượng người cao tuổi tiếp tục tăng nhanh, đạt gần 12,8% dân số vào đầu năm 2021 với 12,5 triệu người, trong đó có 8,1 triệu người từ 65 tuổi trở lên và gần 2 triệu người từ 80 tuổi trở lên. Theo dữ liệu cư dân quốc gia, tính đến ngày 9/2/2023, cả nước có hơn 16,18 triệu người từ 60 tuổi trở lên, chiếm gần 17 % dân số.
Theo phân loại của UNFPA, xã hội có “dân số già” được định nghĩa là xã hội có tỷ lệ người ≥ 60 tuổi vượt 20% tổng dân số.
Với tốc độ “già hóa”, Việt Nam được dự báo sẽ bước sang xã hội có dân số “già” trong khoảng từ 17 đến 20 năm nữa, nhanh hơn hầu hết các quốc gia khác như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, v.v. Dự báo đến năm 2050 tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ vượt mức 25%.
Cuộc “khủng hoảng thiếu” về dân số và những hệ lụy
Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn giảm sinh báo động từ năm 2022.
Ngày 11/7/2025, phát biểu tại lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Dân số Thế giới, bà Đào Hồng Lan, bộ trưởng Bộ Y tế, cho biết tổng tỷ suất sinh đã giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử và dự kiến tiếp tục giảm trong những năm tới. Cụ thể, tổng tỷ suất sinh đã giảm từ 2,01 con/phụ nữ tại năm 2022 xuống 1,96 năm 2023, và tiếp tục giảm xuống 1,91 vào năm 2024.
Mức sinh giảm đáng lo ngại, đặc biệt ở các đô thị lớn như TP. HCM, nơi tỷ suất sinh chỉ 1,32 con/phụ nữ. Tại các tỉnh Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, con số cũng không khá hơn khi chỉ dao động quanh 1,47-1,62 con/phụ nữ.
10 địa phương có tổng tỷ suất sinh thấp nhất cả nước năm 2023. Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê.
Trả lời báo Dân Trí, ông Lê Thanh Dũng, lãnh đạo Cục Dân số (Bộ Y tế) thông tin nguyên nhân chính đến từ việc thay đổi độ tuổi kết hôn ở thanh niên Việt Nam. Các báo cáo cho biết độ tuổi kết hôn trung bình đang ngày càng tăng, từ 24,1 (năm 1999) lên 25,2 (2019) và đến 2024 là 27,2. Bên cạnh đó, sự khác biệt cũng thể hiện rõ theo khu vực địa lý. Phụ nữ ở các khu vực thành thị có độ tuổi kết hôn cao hơn phụ nữ ở khu vực nông thôn, tỷ suất sinh cũng tỷ lệ thuận theo độ tuổi này.
Lãnh đạo này cho biết thêm: “Theo tính toán, năm 2024 với mức sinh thấp thì tỷ lệ tăng dân số bình quân là 0,90% và sẽ giảm còn 0,68% năm 2029, giảm tiếp còn 0,06% vào năm 2054, và từ năm 2059 dân số bắt đầu tăng trưởng âm.”
Ngày 28/8/2024, phát biểu tại Hội thảo quốc tế tham vấn chính sách, ông Phạm Vũ Hoàng, phó cục trưởng Cục Dân số còn phân tích các nguyên nhân khác đưa đến việc mức sinh giảm như “đô thị hóa, kinh tế phát triển, áp lực tìm kiếm việc làm, nhà ở, chi phí sinh hoạt, chi phí nuôi dạy và chăm sóc con gia tăng. Bên cạnh đó, hạ tầng cơ sở có nhiều bất cập như thiếu trường học, học phí và viện phí cao, không động viên mọi người sinh con, v.v.”
Việc tăng trưởng âm về tỷ suất sinh sẽ để lại hệ quả khôn lường cho xã hội.
Hệ quả đầu tiên, như đại diện Cục Dân số cảnh báo, là sự suy thoái kinh tế và tăng mức thâm hụt ngân sách, khi thị trường thiếu hụt lực lượng lao động trẻ, thiếu nhân tố (tái) sản xuất chuỗi cung ứng thị trường, kèm theo gia tăng chi phí chăm sóc người già.
Thứ hai, dân số già hóa diễn ra nhanh hơn, độ lệ thuộc người cao tuổi tăng mạnh, kéo theo mất cân đối quỹ bảo hiểm xã hội, tiềm ẩn rủi ro ngân sách không đủ chi trả chế độ hưu trí, y tế.
Thứ ba, quy mô dân số có thể suy giảm tự nhiên nếu mức sinh thấp kéo dài, dẫn đến vỡ kế hoạch đầu tư cơ sở hạ tầng như trường học, bệnh viện, nhà ở, đưa đến tình trạng các cơ sở này trở nên dư thừa hoặc không phù hợp quy mô dân số mới.
Khi dân không muốn sinh, nhà nước đã làm gì?
An sinh xã hội vốn là vấn đề rất phức tạp và chồng chéo. Bởi lẽ đó, các vấn đề an sinh cần được giải quyết một cách đồng bộ, lâu dài và liên tục.
Từ những trình bày bên trên, ta thấy rõ vấn đề khuyến sinh cũng là một thách thức lớn cho giới quản lý, khi nó cần giải quyết đồng bộ với những vấn đề liên quan, như việc làm, thu nhập, nhà ở, giá cả thị trường, lẫn chính sách phúc lợi, v.v.
Những năm qua, nhà nước cũng đã thể hiện những nỗ lực nhất định.
Ngày 28/4/2024, Chính phủ ban hành Quyết định số 588/QĐ-TTg về Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030. Chương trình này nhằm kêu gọi người trẻ kết hôn trước 30 tuổi và hỗ trợ các gia đình sinh đủ hai con ở các thành phố có tỷ suất sinh thấp.
Ngày 3/6, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh sửa đổi về Pháp lệnh Dân số 2003, có hiệu lực ngay lập tức. Theo đó, vợ chồng, cá nhân tự quyết định thời gian sinh con, số con, khoảng cách giữa các lần sinh dựa trên điều kiện sức khỏe, thu nhập thực tế, môi trường sống, và khả năng nuôi dạy con.
Đáng chú ý, trong hồ sơ Dự thảo Luật Dân số 2025, trình Quốc hội thông qua vào tháng 10, Bộ Y tế đề xuất chi tổng ngân sách dự kiến hơn 5.300 tỷ đồng cho các chính sách khuyến sinh, bao gồm khoản chi 650 tỷ đồng bằng tiền mặt hoặc hiện vật, dành cho các phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi; ưu đãi tài chính hỗ trợ tiền mặt hoặc hiện vật cho những gia đình chỉ sinh hai con gái hơn 151,8 tỷ đồng; chi hỗ trợ sinh hoạt phí; hỗ trợ chi phí ăn đối với trẻ em học mầm non; miễn, giảm chi phí khám thai định kỳ khoảng 24,3 tỷ đồng; v.v.
Bên cạnh đó, về thời gian nghỉ thai sản, Bộ Y tế đề xuất lao động nữ sinh con thứ hai được nghỉ thai sản 7 tháng, các trường hợp khác giữ nguyên hiện hành 6 tháng theo Bộ luật Lao động hiện hành.
Mặt khác, từ ngày 1/7, nam giới đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) cũng được mở rộng chế độ thai sản theo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) năm 2024. Luật Mới bổ sung đối tượng được hưởng là lao động nam đang tham gia BHXH (bắt buộc) nếu vợ của người này sinh con. Theo đó, tăng khoảng thời gian nghỉ thai sản của lao động nam lên 60 ngày từ 30 ngày và có thể nghỉ nhiều lần miễn sao tổng số ngày nghỉ không vượt quá quy định và lần nghỉ cuối cùng nằm trong 60 ngày đầu sau khi vợ sinh.
Luật mới cũng tạo thêm nhiều điều kiện hưởng quyền lợi cho lao động nữ. Cụ thể, hỗ trợ đặc biệt cho lao động nữ mang thai hoặc lao động nữ mang thai hộ trong trường hợp thai nhi không may mất thì cả lao động nữ và người chồng đều được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như trường hợp sinh con; bổ sung điều kiện hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ sinh con mà trước đó phải nghỉ việc để điều trị vô sinh; người mang thai hộ, người mẹ nhờ mang thai hộ và người chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ cũng được hưởng trợ cấp thai sản một lần mặc dù không tham gia đóng BHXH bắt buộc hoặc không đủ điều kiện nhưng người chồng của người mang thai hộ đã đóng BHXH bắt buộc từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm người mang thai hộ sinh con; v.v.
Hơn thế, Luật BHXH (sửa đổi) năm 2024 cũng có ưu đãi về mức trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận con nuôi.
Ngày 15/7, Chính phủ ban hành Nghị định 207/2025/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, phụ nữ độc thân có nguyện vọng sinh con được thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (IVF). Khác với Nghị định số 10/2015/NĐ-CP chỉ được áp dụng kỹ thuật IVF cho cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa thì Nghị định 207 đã nới lỏng về điều kiện áp dụng IVF.
Bấy nhiêu hỗ trợ liệu có đủ xoay chuyển tình hình?
Song song với sự ban hành các chính sách khuyến sinh một cách rời rạc, nhà cầm quyền Việt Nam vẫn thể hiện ưu tiên hậu thuẫn cho các chính sách về phát triển kinh tế. Từ việc ban hành các chính sách quản lý hành chính (như Nghị định 168/NĐ-CP) hay chính sách về môi trường (như Chỉ thị 20/2025/TTg), đều có mục đích “đánh mạnh” vào kinh tế và hạn chế cơ hội phát triển sinh kế vốn dĩ đã có sự khiêm tốn về mọi mặt.
Chưa kể, những vấn đề về “bong bóng bất động sản” vẫn còn tồn tại một cách âm ỉ chưa được giải quyết. Những quyền lợi cho người dân từ các chính sách khuyến sinh chưa cho thấy rõ sự quan tâm, cũng chưa tỏ rõ công dụng nào. Phải chăng những chính sách này chỉ đang phục vụ ý nghĩa cho việc trình diễn sự ban ơn bằng quyền lực chính trị, hơn là một giải pháp thực chất?
Ông Matt Jackson, trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, trong buổi đối thoại với thanh niên được tổ chức gần đây cho rằng các áp lực kinh tế-xã hội khiến mong muốn có con trở nên bất khả thi, khi vẫn còn tồn tại hiện trạng nhà ở đắt đỏ, thiếu dịch vụ chăm sóc trẻ em, công việc không ổn định, bất bình đẳng giới, thiếu tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản, khó tìm được người bạn đời phù hợp, và những lo ngại ngày càng tăng về xung đột hay biến đổi khí hậu, v.v.
Theo ông này, câu hỏi đặt ra nên là: “Những rào cản nào đang ngăn cản các cá nhân và cặp đôi có được số con mong muốn, và làm sao tháo gỡ những rào cản đó?” Trong khi các chính sách quốc gia hiện nay chỉ đang cố giải quyết câu hỏi: “Làm sao để khuyến khích phụ nữ sinh thêm con?”
Cũng theo chuyên gia từ UNFPA, thay vì chỉ đề ra những giải pháp tình thế, có tính khuyến khích hay hỗ trợ, Việt Nam cần tập trung gỡ bỏ những rào cản cơ cấu đang cản trở quyền sinh sản của người dân như chi phí nuôi con, bất bình đẳng trong công việc, và gánh nặng việc nhà, đồng thời đầu tư vào nguồn nhân lực và chất lượng dân số để tận dụng cơ hội dân số vàng.
“Quyền sinh sản không phải là ‘chuyện riêng của phụ nữ’ mà là quyền con người. Và chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ và thúc đẩy quyền tự quyết về sinh sản ấy,” ông Jackson nhấn mạnh.
Nguồn: Dân số già và thách thức khuyến sinh: Chính sách liệu đã chính xác?
Không có nhận xét nào