Phần 1
Stephen B. Young
08/10/2025
GS Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990). Nguồn: Wiki
Năm 1990, vài tháng trước khi mất do bị ung thư, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã nhờ tôi giúp tìm cách hòa giải giữa những người Việt Nam – Quốc gia và Cộng sản. Ông nhờ tôi đích thân phụ trách về một việc riêng tư để tham khảo với các đồng chí trong Đảng Tân Đại Việt [mà ông là một trong những người sáng lập].
Ông nói rằng, rất nhiều người Việt Nam đã chết và đau khổ vì Đảng Cộng sản Việt Nam, họ đã dùng quyền lực không khoan nhượng của mình nhằm đơn phương áp đặt sự thống trị của họ lên tất cả những người Việt Nam.
Ông nói với tôi rằng, hạnh phúc (sinh tồn) của người dân Việt Nam hiện đòi hỏi một nỗ lực đặc biệt để hòa giải những người Cộng sản và những người Quốc gia để chấm dứt đau khổ và áp bức.
Ở Hà Nội thời đó, Tướng Võ Nguyên Giáp có thể phản ứng tích cực với sáng kiến tìm kiếm sự hòa giải. Liên Xô sụp đổ đã khiến những người Cộng sản mất đi người bảo trợ truyền thống của họ. Ông Giáp không muốn Trung Cộng bước vào như một người bảo trợ mới của Chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam.
Giáo sư Huy hỏi rằng, nếu tôi có cơ hội ra Hà Nội và gặp Tướng Giáp, tôi sẽ cố gắng tìm ra một công thức hòa giải có thể chấp nhận được cho cả phe Cộng sản và phe Quốc gia. Tôi nói, đồng ý, tôi sẽ làm theo yêu cầu của ông ấy.
Một trong những bức thư của GS Nguyễn Ngọc Huy gửi GS Stephen B. Young. Nguồn: GS Young cung cấp cho Tiếng Dân
Trước hết, Giáo sư Huy là bạn và là người cố vấn của tôi. Chỉ riêng những lý do đó thôi, tôi không thể từ chối yêu cầu của ông. Tôi đã bảo lãnh cho ông tái định cư tại Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1975, khuyến khích ông sống lưu vong để tiếp tục cuộc đấu tranh chính nghĩa vì danh dự quốc gia Việt Nam và các giá trị đã được lưu giữ trong 4.000 văn hiến của dân tộc Việt Nam.
Tôi biết ông đã bị lãnh tụ Cộng sản Lê Duẩn nhắm đến, ông là mục tiêu ám sát vì ông thành công trong việc đề xuất học thuyết chính trị Chủ nghĩa Dân tộc Sinh Tồn, vốn là nền tảng của Nam Việt Nam trong việc đánh bại Việt Cộng ở các làng mạc và xây dựng một chính quyền dân chủ lập hiến ở Sài Gòn sau năm 1967. Nếu ông ở lại Việt Nam, những người Cộng sản sẽ truy lùng và giết ông. Ông đã đồng ý và đến Hoa Kỳ cùng hai đứa con của mình. Họ, cùng với gia đình vợ tôi, đã sống với chúng tôi trong ngôi nhà nhỏ ở Brooklyn, New York, khoảng vài tháng.
Vào cuối thập niên 1970, tôi từng làm việc chặt chẽ với GS Huy tại Trường Luật Harvard về bản dịch Quốc Triều Hình Luật, Bộ luật của nhà Lê, sang tiếng Anh và một sách nghiên cứu về Truyền thống Nhân quyền ở Trung Quốc và Việt Nam. Vào thập niên 1980, tôi đã hỗ trợ công việc của ông trong việc thành lập Ủy ban Quốc tế Yểm Trợ Việt Nam Tự do tại Hoa Kỳ, Canada, Úc và Châu Âu.
Thứ hai, đối với tôi, Giáo sư Huy là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, người có sự nghiệp đáng trân trọng và xứng đáng được ủng hộ. Tôi đã coi ông là nhà tư tưởng chính trị và chiến lược gia xây dựng đất nước Việt Nam lỗi lạc và quan trọng nhất kể từ Nguyễn Trãi vào đầu những năm 1400. Tôi chấp nhận mà không nghi ngờ gì về đánh giá của ông, về những gì cần phải làm để giúp duy trì chủ quyền quốc gia Việt Nam được hướng dẫn bởi công lý xã hội cho tất cả những người dân sống ở Việt Nam.
Thứ ba, tôi biết ông không còn sống được bao lâu, nên sẵn lòng cam kết hỗ trợ người mà tôi ngưỡng mộ như một cách thể hiện lòng biết ơn đối với lòng dũng cảm và sự hy sinh của ông.
Thứ tư, sự nghiệp của ông, sự nghiệp của dân chúng Việt Nam, đã được đất nước tôi ủng hộ trong một cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của 58.000 lính Mỹ, cùng nhiều người khác bị thương. Nỗ lực của những người Mỹ khi đó, nếu bây giờ có thể được minh oan, thông qua sự hòa giải giữa những người Cộng sản và những người Quốc gia, tôi sẵn sàng làm hết sức mình để mang lại kết quả như vậy.
Có phần tình cờ, vài tháng sau khi Giáo sư Huy qua đời, một cơ hội đến mà không báo trước hay không có kế hoạch cho tôi đến thăm Hà Nội với một người Việt Nam lớn tuổi hơn, là người có thể tiếp cận với các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Một người bạn ở Paris đã giới thiệu tôi với ông Nguyễn Mạnh Hà, người sau đó nói rằng ông sẽ tài trợ cho chuyến thăm Hà Nội của tôi. Ông Hà là Bộ trưởng Kinh tế đầu tiên dưới thời Hồ Chí Minh ngay sau Thế chiến II khi ông Hồ thành lập một chính phủ ban đầu được người Pháp công nhận. Vợ của ông Hà là người Pháp và là con gái của một thành viên lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp.
Tôi đã đến Hà Nội để gặp những người mà ông Hà sắp xếp cho tôi gặp. Người quan trọng nhất là Tố Hữu, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong đảng và chính phủ, như ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng… Qua cuộc trò chuyện của chúng tôi, có vẻ như ông ấy được cử đến để kiểm tra tôi nói chuyện, chứ không phải để thảo luận về bất kỳ điều gì cụ thể. Cũng quan trọng không kém, tôi đã gặp Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên và là người đứng đầu Mặt trận Tổ quốc.
Tôi tự hỏi tại sao tôi được giới thiệu với Mặt trận Tổ quốc vì trên danh nghĩa nó chỉ là một tổ chức mặt trận của Đảng Cộng sản, không có thực quyền. Nhưng trong cuộc họp tại trụ sở của Mặt trận, tôi nhận thấy rằng bài thuyết trình tập trung vào các quyền hợp pháp của Mặt trận trong việc tiếp nhận các tổ chức phi Cộng sản và đề cử các cá nhân để bầu vào Quốc hội. Tôi tự hỏi, liệu thông tin đó chỉ được trình bày với tôi một cách tình cờ hay liệu đó có phải là một cách cố ý nhưng gián tiếp để gợi ý cho tôi một con đường để tất cả người Việt Nam hợp tác dưới chế độ Cộng sản hiện tại.
Tôi không được phép gặp Tướng Giáp. Ông Hà khá bực mình vì sự từ chối này vì ông coi đó là sự xúc phạm cá nhân đối với bản thân mình, vì ông là một người đồng chí cũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng không đồng ý gặp chúng tôi, điều mà ông Hà cũng không vui.
Trong các cuộc họp và trò chuyện, tôi không đưa ra ý tưởng nào và không có chương trình nghị sự nào. Tôi sẽ hỏi những câu hỏi chung về tương lai của Việt Nam và lắng nghe kỹ những gì được trả lời. Lý do công khai của tôi khi đến thăm Hà Nội là để gặp gỡ họ hàng của vợ tôi sống ở Hà Nội và thăm làng Mễ Trì, nơi gia đình cha cô ấy đã sống qua nhiều thế hệ ngay bên ngoài Hà Nội.
Khi trở về Hoa Kỳ, tôi đã gặp anh Cao Minh Châu, cộng sự thân cận của Giáo sư Huy. Tôi đã truyền đạt cho anh ấy suy nghĩ của mình, rằng có một sự cởi mở cho các cuộc thảo luận với Mặt trận Tổ quốc, đáng để suy nghĩ như một phương tiện hòa giải. Sau đó, anh Châu đã tham vấn với ông Nguyễn Đình Huy (1932-2012) và Phạm Thái (1921-2001) (*) tại Sài Gòn.
Sau đó, tôi được yêu cầu quay trở lại Hà Nội để gặp một người trung gian mới gần gũi hơn với Bộ Chính trị. Tôi đồng ý và thực hiện một chuyến đi khác. Người đối thoại của tôi bây giờ là ông Dương Văn Đàm, với bí danh là Hà Nghiệp. Ông Đàm là một người Công giáo và trong nhiều thập kỷ ông là nhân vật cao cấp của Đảng, giám sát những người Công giáo không được công chúng biết đến và Giáo hội Công giáo. Ông không đưa ra ý tưởng nào nhưng lắng nghe kỹ lưỡng những suy đoán khả năng của tôi.
Vào thời điểm này, tôi kết luận rằng người Việt Nam tôn trọng đề xuất của tôi qua ý tưởng của tôi vào năm 1989 về một chính quyền ủy thác tạm thời của Liên Hiệp quốc tại Campuchia để chấm dứt cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa Hà Nội và Bắc Kinh đã có hiệu lực và Việt Nam rút lui mà không mất mặt trước Trung Quốc.
Trong chuyến đi này, tôi đã đề cập một cách cởi mở hơn về sự tiến triển của Việt Nam, về việc Đảng Cộng sản không còn phản đối những người không phải là Cộng sản tham gia tranh cử. Tôi đã trình bày với các nhà lãnh đạo Việt Nam ví dụ về Đảng Hành động Nhân dân Singapore dưới thời Lý Quang Diệu, nơi mà trong nhiều năm, Đảng này đã thống trị Quốc hội và chính phủ Singapore với sự ủng hộ của cử tri chỉ trong phạm vi 60% – đủ để có quyền chỉ đạo quản lý nhưng cũng cho phép một số lượng lớn người Singapore bỏ phiếu cho các đảng khác và những cá nhân không phải là đảng viên và do đó cảm thấy tự cho mình là quan trọng.
Tôi đã nói rằng, nếu Việt Nam có thể trở nên thịnh vượng và hiện đại như Singapore, thì đó sẽ là một thành tựu không hề nhỏ. Tất cả đều đồng ý với tôi về quan điểm đó.
(Còn tiếp)
________
(*) Ghi chú của Tiếng Dân: Nhà báo Phạm Thái, tên thật là Nguyễn Ngọc Tân, thành viên của đảng Tân Đại Việt. Được biết, ông Nguyễn Ngọc Tân là em ruột của bà Bảy Vân, tức Nguyễn Thụy Nga (hay Nguyễn Thị Vân), vợ sau của TBT Lê Duẩn. Như vậy, nhà báo Phạm Thái là em vợ của ông Lê Duẩn. Theo thông tin từ đảng Tân Đại Việt, sau ngày 30-4-1975, ông Nguyễn Ngọc Tân đã từng bị CSVN bắt giam tổng cộng gần 20 năm.
Bogo Abe
Cho đến BGÀY NAY mà ĐCSVN vẫn KHÔNG THỪA NHẬN CUỘC CHIẾN VN ( BẮC NAM ) là một BI KỊCH DÂN TỘC XÂU XÉ mà là MỌT CHIẾN THẮNG VĨ ĐẠI của ĐCSVN " GIẢI PHÓNG " CHỐNG LẠI XÂM LƯỢC MỸ (?) và " NGỤY QUÂN, QUYỀN CP Miền Nam ".
Đây là LẬP LUẦN ( QUYẾT ĐỊNH của ĐẢNG CSVN ) KIÊN ĐỊNH . NHẤT QUYẾT không cho sửa đội Các lãnh đạo ĐCSVN dù BIẾT RÕ " KHÔNG ĐÚNG NHƯ VẬY " nhưng KHÔNG AI DÁM SỬA SAI
Bởi vì NHỮNG AI NÓI ĐẾN KHÁC QUAN ĐIỂN NÀY thí bị cho là PHẢN ĐỘNG, PHẢI BỊ LOÀI BỎ
Do đó mà CHO ĐẾN BÂY GIỜ CẢ ĐẾN BAO NHIÊU ĐỒNG BÀO ĐANG LÀ TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM đang đau khổ TRONG NGỤ TÙ ở ĐẤT NƯỚC CSVN
https://baotiengdan.com/2025/10/08/chuyen-bay-gio-moi-ke-no-luc-hoa-giai-bat-thanh-voi-nhung-nguoi-cong-san-hon-30-nam-truoc-phan-1/

Không có nhận xét nào