Header Ads

  • Breaking News

    Dòng Sông Định Mệnh hay cơn lũ bi kịch? Doãn Quốc Sỹ và tiếng nói của trí thức

    Vũ Quí Hạo Nhiên 

    21/10/2025

    "... Chính vì vậy, sau hơn nửa thế kỷ trải qua gần tất cả các biến động của lịch sử hiện đại, Dòng Sông Định Mệnh vẫn chạm đến người đọc như một lời chứng của một trí thức Việt Nam không chịu để bị tước đi phẩm giá. Doãn Quốc Sỹ đã để lại cho văn học Việt Nam một tác phẩm không chỉ mô tả bi kịch thời đại, mà còn minh chứng rằng ngay cả khi lý tưởng sụp đổ, con người vẫn có thể tìm thấy sự vô tư và phẩm giá của mình bằng những giá trị Chân, Thiện, Mỹ vĩnh cửu".



    Ảnh bìa sách: Nhà xuất bản Tự Do.


    Ảnh bìa sách: Nhà xuất bản Tự Do.

    Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh.

    Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này. 

    Từ làng đến chiến khu: Câu chuyện dòng sông

    Truyện mở đầu bằng chương Khúc Quành của Dòng Sông, với tuổi thơ của hai nhân vật chính, cậu bé Thiệu và cô bé Yến, bên sông Đuống. Thiệu hơn Yến hai tuổi, được mẹ Yến giao nhiệm vụ trông nom khi đi và về trường làng. Khi Thiệu 10 tuổi và Yến 8 tuổi, Thiệu liều mình cứu Yến khỏi bị nước cuốn ở bến phà, chấp nhận bị cha đánh đòn. 

    Thiệu hay ra đê ngắm khúc quành của sông Đuống, hình dung cây đa làng là cây đa của Thạch Sanh. Đó là con sông của tuổi thơ.

    Thiệu đậu Sơ học bổ túc và lên Bắc Ninh trọ học. Yến theo bác xuống Hà Nội học ở trường Hàng Cót. Năm 16 tuổi, Thiệu “khám phá được thêm một điều mà từ xưa Thiệu không để ý: Yến đẹp, đẹp lắm.” Thiệu viết thư tình đầu tiên cho Yến. Nhưng Yến lại nói, “Đừng anh Thiệu ạ.” Chương này Doãn Quốc Sỹ đặt tên là Con Sông Dài Đi Tìm Ánh Trăng Mười Sáu.

    Năm 17 tuổi, Thiệu đậu bằng Thành Chung và ra Hà Nội trọ học. Năm sau, Yến nhận trầu cau và kết hôn với một người du học từ Pháp về. Thiệu vào trường Cao đẳng Mỹ thuật ban Hội họa để tìm cách quên đi nỗi thất tình. Đó là chương III Hai Ngả Sông Đi Về Đâu?, cũng kết thúc bằng cùng câu hỏi:

    Giờ đây Thiệu với đời Yến như một dòng sông tách ra làm hai ngành cách biệt hẳn.

    Hai ngành cách biệt hẳn và xa khơi….

    Rồi đây hai ngả sông đi về đâu?

    Vào Huế dạy học, nhưng với lý tưởng cách mạng chống Pháp, Thiệu tham gia tổng khởi nghĩa năm 1945 tại Huế và các hoạt động tuyên truyền, tình báo.

    Lý tưởng và phản bội

    Vào chiến khu La Chữ, Thiệu chứng kiến những điều khác hẳn với giấc mơ giải phóng dân tộc. Trong môi trường cách mạng, tinh thần tự do, nhân bản bị bóp nghẹt bởi giáo điều ý thức hệ. Thiệu sững sờ phải nghe các đồng chí nói chuyện kiểu này, trong một đoạn thoại khá dài trong truyện:

    – Pasteur là một tên phản động.

    Thiệu giật mình nghĩ: Quái đêm khuya thế này mà tiểu ban nghiên cứu kinh tế địch ở gian bên vẫn chưa kiểm thảo xong. Lời nói vừa rồi, Thiệu nhận ngay ra là lời của “đồng chí” trưởng tiểu ban.

    Giọng “đồng chí” dằn mạnh hơn:

    – Xin đồng chí nhớ cho: Pasteur là một tên phản động!

    Một giọng nói dễ dàng hỏi lại mà Thiệu nhận ngay là giọng của anh cựu sinh viên năm thứ hai trường thuốc – nhân viên trong ban:

    – Đồng chí cho biết vì sao mà Pasteur là một tên phản động kia chứ và như thế cả Koch cũng là một tên phản động sao?

    – Phải, cả Pasteur và Koch đều phản động!

    – Vì sao vậy?

    – Vì tài của họ là do tư bản đế quốc nâng đỡ huấn luyện, vì họ đã đem tài đó ra để phục vụ tư bản đế quốc, Pasteur và Koch đều có tội với nhân dân.

    – Thưa đồng chí tôi chỉ thấy rằng Pasteur có tội với vi trùng nói chung và Koch có tội với vi trùng lao nói riêng, vì họ đã phát minh ra cách diệt chúng để tất cả chúng ta ngày nay đều được hưởng kết quả đó.

    – Đồng chí nên nhớ Pasteur và Koch là người của tư bản đế quốc!

    – Nhưng lúc bấy giờ chưa có Đảng để lãnh đạo Pasteur và Koch thì lỗi đâu ở Pasteur và Koch?

    – Đồng chí không bao giờ được phép quên rằng: Pasteur và Koch là người của tư bản đế quốc.

    Lập luận “người của tư bản đế quốc” có thể nghe rất ngớ ngẩn, nhưng đó từng là lập luận có thật, từng được sử dụng thường xuyên. “Người của tư bản đế quốc” suy ra là phản động, chính là nền móng cho tiêu chuẩn “hồng hơn chuyên”.

    Ngay cả viện dẫn “tài của họ là do tư bản đế quốc nâng đỡ huấn luyện” để hạ thấp người khác cũng từng là lý do có thật, được sử dụng trong đời thật, để hạ điểm một sinh viên chẳng hạn, với lý do sinh viên ấy chỉ giỏi do lớn lên với “bơ sữa tư bản”.

    Các lập luận kiểu này rõ ràng là ngụy biện (có thể gộp chung vào genetic fallacy – ngụy biện nguồn gốc) nhưng chúng dẫn đến hai hệ quả. Thứ nhất, khó mà cãi lại. Vì cãi lại có thể bị quy vào tội bênh vực “tư bản đế quốc”. Và thứ nhì, dẫn đến chủ nghĩa lý lịch mà tới nay vẫn lan tràn khắp Việt Nam (“nhất hậu duệ, nhì quan hệ”).

    Cả hai hệ quả này, một người trí thức có suy nghĩ không thể chấp nhận được.

    Chính vì vậy, ngoài đời thật, Doãn Quốc Sỹ đã từng đi theo kháng chiến trong 5 năm, nhưng cuối cùng ông đã bỏ về thành.

    Nhân vật Thiệu, và sau này là các nhân vật khác của Doãn Quốc Sỹ như Kha, Hiển, Miên trong Ba Sinh Hương Lửa, cũng vậy. Thiệu bỏ chiến khu, về lại Huế.

    Những người theo kháng chiến nhưng thất vọng và bỏ, rất đông, và họ bị người cộng sản miêu tả bằng cụm từ miệt thị là theo cách mạng kiểu “lãng mạn tiểu tư sản”. Đại ý là không đủ cứng rắn như họ, để theo cách mạng tới cùng.

    Lãng mạn tiểu tư sản

    Người cộng sản dùng “lãng mạn tiểu tư sản” để quy kết giới trí thức đã từng theo họ, như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Văn Cao, Quang Dũng, Nguyễn Tuân. Nhưng trên thực tế, tôi chưa tìm thấy được một định nghĩa nào, một bảng điểm nào để theo đó có thể chấm tác phẩm A, tác giả X, lãng mạn tiểu tư sản hay không. Nó như một thứ bùa để vô hiệu hóa những đóng góp xương máu mồ hôi và tuổi trẻ của những trí thức này, và bùa thì nằm trong túi nên khó biết hình dạng ra sao.

    Vì không được định nghĩa rõ ràng, nên rất dễ gán cho ai thì gán. Kiểu ngụy biện này tiếng Anh có tên rất hay, là “No true Scotsman” – không phải người Scotland chân chính. “Không người Scotland chân chính nào lại cho đường vào cháo.” “Nhưng bố tôi người Scotland và ông cho đường vào cháo.” “Vậy bố chị không phải người Scotland chân chính.”

    Cũng như vậy: “Cách mạng chân chính sẽ không làm thơ như Tây Tiến của Quang Dũng.” “Nhưng Quang Dũng là người của cách mạng.” “Vậy Quang Dũng không phải người cách mạng chân chính.”

    Có điều là chẳng ai bận tâm gán nhãn “lãng mạn tiểu tư sản” cho những người chưa hề theo cách mạng. Và cũng chỉ có trí thức, người có viết, có vẽ, có dạy học, làm nhạc, mới bị gán nhãn “lãng mạn tiểu tư sản” chứ người khác thì không. 

    Ở một mặt nào đó, cái nhãn “lãng mạn tiểu tư sản” cũng chỉ là một cách để loại trừ một tầng lớp người dựa trên xuất thân của họ. Một thể hiện khác của chủ nghĩa lý lịch. 

    Lãng mạn tiểu tư sản kiểu Doãn Quốc Sỹ

    Nếu đi kháng chiến kiểu Doãn Quốc Sỹ là lãng mạn tiểu tư sản thì trong tay Doãn Quốc Sỹ, điều đó trở thành dấu hiệu của nhân tính, của sự cảm thương, của khả năng biết thông cảm cho người khác. Như nhân vật Thiệu nhận ra trong truyện: 

    Ai mà chẳng yêu Tổ quốc, yêu nhân loại vô điều kiện? Nghệ thuật chân chính mặc nhiên phải vô tư, chính trị chân chính mặc nhiên phải vươn tới chỗ vô tư… Nếu đừng quá căn cứ vào góc cạnh của tiếng nói nhân loại, thì Thiệu có thể cả quyết rằng: Chân, Thiện, Mỹ là một! 

    Người ta có thể chỉ vào đấy và nói, “lãng mạn tiểu tư sản đây chứ đâu!” Nhưng đó chính là mấu chốt: nó là kết luận của một con người tử tế. 

    Chính vì vậy, sau hơn nửa thế kỷ trải qua gần tất cả các biến động của lịch sử hiện đại, Dòng Sông Định Mệnh vẫn chạm đến người đọc như một lời chứng của một trí thức Việt Nam không chịu để bị tước đi phẩm giá. Doãn Quốc Sỹ đã để lại cho văn học Việt Nam một tác phẩm không chỉ mô tả bi kịch thời đại, mà còn minh chứng rằng ngay cả khi lý tưởng sụp đổ, con người vẫn có thể tìm thấy sự vô tư và phẩm giá của mình bằng những giá trị Chân, Thiện, Mỹ vĩnh cửu.

    https://luatkhoa.com/2025/10/dong-song-dinh-menh-doan-quoc-sy-va-tieng-noi-cua-tri-thuc/


    Không có nhận xét nào