Phần 1
Anh Quoc
03/11/2025
Một cuộc chiến không phân biệt được bên nào chính nghĩa, bạo tàn - Kéo dài dai dẳng, lịch sử không thể phán quyết để lại nỗi đau lòng trong nhiều gia đình cả ở hai bên chiến tuyến, hận thù không chấm dứt đó là bi kịch của một dân tộc.
Những câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta cảm nhận được bi kịch của một cuộc chiến mang tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”
CHA CON TỪ NHAU.
Cuối năm 1995, nhà xuất bản Longstreet Press, Atlanta, Georgia, cho phát hành ấn phẩm " Một Ngàn Giọt Lệ Rơi, A Thousand Tears Falling " của một phụ nữ Việt tên Yung Krall tự Đặng Mỹ Dung.
Trong lời tựa của cuốn này, cựu Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ Griffin Boyette Bell viết: "Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tôi nhiệt liệt tán dương sự nghiệp của cô đối với nước ta, và tôi vui mừng thấy rằng cuối cùng người đọc đã được biết đến câu chuyện của người phụ nữ xuất sắc này. Hy vọng của tôi là cuốn sách này sẽ đóng góp vào quá trình hàn gắn vết thương và xiết chặt tình cảm ở đất nước này và ở Việt Nam."
Vậy, Đặng Mỹ Dung là người phụ nữ như thế nào?
Đặng Mỹ Dung là con gái của Đặng Quang Minh (làm nghề giáo tên thật là Đặng Văn Quang), nguyên đại sứ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) tại Liên Xô, có 6 anh em.
Năm 1954 khi bà được 9 tuổi thì cha bà tập kết ra Bắc.
Mặc dù muốn đưa cả vợ con đi, nhưng vợ không bằng lòng, vì không đồng ý với đường lối làm việc theo Cộng sản của ông, nên ông chỉ đưa người con trai cả là Đặng Văn Khôi đi theo, để vợ và 6 người con ở lại.
Bà Dung chỉ gặp lại cha lần đầu tiên vào tháng 8 năm 1975 lúc cha bà đại diện phái đoàn của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đi qua Tokyo để dự hội nghị chống bom nguyên tử.
Theo bà Dung thì bà bắt đầu làm việc với cơ quan tình báo Mỹ CIA vào tháng 5 năm 1975, để trả ơn cho họ, sau khi nhờ họ giúp má bà ra khỏi Việt Nam.
Bà Đặng Mỹ Dung đã cộng tác với CIA và FBI để phá mạng lưới gián điệp Việt Nam hoạt động tại Mỹ thời kỳ 1976-1978, đưa đến việc ông Đinh Bá Thi, đại diện Việt Nam tại Liên hợp quốc bị trục xuất. Ronald Humphrey, người cung cấp tài liệu và Trương Đình Hùng, người nhận và chuyển tới phía Việt Nam ở Paris qua bà Dung bị kết án 15 năm tù.
17 chương đầu của hồi ký “Một ngàn giọt lệ rơi” dành để trình bày cuộc sống của gia đình tác giả từ 1945 đến 1954 trong chiến khu Nam bộ và từ 1954 đến 1975 trong vùng quốc gia.
Thân mẫu của Yung Krall là bà Trần Thị Phàm, có 7 người con, hai trai và năm gái. Yung Krall là người con thứ tư trong gia đình. Trước Hiệp định Genève, Đăng Quang Minh đắc cử Dân biểu Cần thơ trong Quốc hội CS và năm 1954, rút về Bắc Việt để làm việc trong ngành ngoại giao.
Trong 10 năm chống Pháp và Chính phủ quốc gia, Đặng Quang Minh cùng gia đình đổi vùng thường xuyên, từ Ông Dẹo, Ba Ngọn ( Cầnthơ ) qua Kim Quy, Cảng Chú Hàng ( Chương Thiện ) để tổ chức kháng chiến.
Yung Krall kể lại rằng cha cô lắm lúc vắng mặt nhiều tháng, có lẽ qua Thái lan mua võ khí, và khi về nhà thì thường phải cải trang ẩn núp để tránh Mật thám Pháp truy lùng.
Tại Ông Dẹo, Lê Đức Mai, sau này đổi tên thành Mai Chí Thọ, em ruột của Lê Đức Thọ, thường lui tới với gia đình cô. Cuối 1953, Lê Đức Thọ, từ Hà nội vào, có đến chủ tọa một phiên nhóm cán bộ tại Cảng Chú Hàng.
Sau Hiệp định Genève, Đặng Quang Minh tập kết ra Bắc với Khôi, đứa con trai đầu lòng 18 tuổi. Đặng Mỹ Dung - lúc đó vừa lên chín - cùng với mẹ và chị em về tá túc tại nhà ông ngoại ở Long Thạnh, Cần Thơ.
Trong gia đình của Dung, các chú và cô đều hoạt động cho CS nhưng mẹ và ông ngoại, lại không chấp nhận xã hội chủ nghĩa bất nhân.
Sự dị biệt về lý tưởng, tuy nhiên, không làm sứt mẻ tình thương kính lẩn nhau. Vì biết không thuyết phục nổi vợ con thay đổi lập trường, Đặng Quang Minh không tìm cách gây áp lực quá đáng.
Trong suốt cuộc chiến VN, mỗi gia tộc là một thảm cảnh phân chia - hình ảnh chung của đất nước! - với những thân nhân sinh Bắc tử Nam hay trái lại.
Gia đình của tác giả không phải là một biệt lệ.
Trước khi tập kết, Đặng Quang Minh thận trọng cho thủ tiêu tất cả hình ảnh chụp chung với ông, lập khai sinh khác cho các con, ghi cha " vô danh " và sửa tờ khai gia đình, ông hứa hai năm sẽ trở lại.
Không ngờ hai mươi mốt năm sau, về nơi sinh quán thì gia đình đã bỏ "thiên đường CS" và vĩnh viễn ra đi.
Từ 1954 cho đến ngày Miền Nam sụp đổ, Đặng mỹ Dung và gia quyến sống lang bạt, hụp lặn trong mọi thử thách vât chất, an ninh và tinh thần.
Dung lớn lên như cỏ dại, với mặc cảm ray rứt của một người con không cha, "cha vô danh" mặc dù biết rõ cha còn đó, bên kia vĩ tuyến.
Dung nhớ gia đình và thấy tương lai không có triển vọng nên lên Sàigòn, nhờ hai người chị làm cho Mỹ giới thiệu vào giúp việc tại Trung tâm BOQ (Bachelor Officers’ Quarter)
Tại đây, Dung gặp Trung úy Hải quân John James Krall và sau vụ tấn công Tết Mậu thân 1968, cả hai rời VN về Monterey, Californie để làm đám cưới. Lúc đó, hai người chị của Dung đang sống tại Mỹ vả ba chị em đã trở thành công giáo.
Hãi Vân, người em trai của Dung, 21 tuổi, tình nguyện gia nhập Không quân và được Bộ Quốc phòng VNCH đưa đi tu nghiệp tại Lacland, Texas.
Đầu tháng giêng 1971, Hải Vân tử nạn trong một chuyến bay tập dượt gần Savannah, Georgia.
Năm 1973, Yung Krall về thăm gia đình tại Sài Gòn và nhân dịp này, nhận góp phần bảo trợ Cô nhi viện Minh Trí tại Gò vấp.
Đầu 1975, John Krall đổi qua Fleet Weather Central, Hawai. Bất thần một buổi sáng, Yung Krall nhận một cú điện thoại từ Paris của một người Pháp xưng tên Jean Sagan, bạn thân của Đặng Quang Minh, báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ và thúc Yung Krall di tản gấp mẹ và em ra khỏi xứ.
Yung Krall sực nhớ lại ba năm trước, có nhận được củng của kẻ trung gian bí mật này một bao thơ (không ghi tên người gửi), củng từ Pháp, chuyển một số hình của Đại sứ Đặng Quang Minh chụp ở Hà Nội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… và tại Mạc tư khoa và Mông cổ, làm cô bàng hoàng.
Bi kịch của gia đình Đặng Mỹ Dung tiếp theo như thế nào xin đọc tiếp ở phần 2
Facebook Anh Quốc
Không có nhận xét nào