Header Ads

  • Breaking News

    Bi kịch một cuộc chiến

    Phần 4 và 5

    Anh Quoc

    06/11/2025

    (Ảnh: Ông Trần Văn Hương và con trai Trần Văn Dõi)

    Một cuộc chiến không phân biệt được bên nào chính nghĩa, bạo tàn – kéo dài dai dẳng, lịch sử không thể phán quyết để lại nỗi đau lòng lòng trong nhiều gia đình cả ở hai bên chiến tuyến, hận thù không chấm dứt đó là bi kịch của một dân tộc.

    Những câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta cảm nhận được bi kịch của một cuộc chiến mang tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”

    Câu chuyện thứ hai:

    ĐOÀN TỤ MUỘN MÀNG.

    Trong các tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa được dân bầu, hợp hiến, hợp pháp, người có thời gian tại nhiệm ngắn nhất là ông Trần Văn Hương, ông ngồi ghế tổng thống đúng 7 ngày (từ 21/4/1975 đến 28/4/1975) sau khi nhận lại ghế tổng thống từ ông Nguyễn Văn Thiệu và trao lại cho ông Dương Văn Minh.

    Cũng như rất nhiều gia đình Việt Nam khác, gia đình tổng thống Trần Văn Hương cũng rơi vào hoàn cảnh có người thân ở hai bên chiến tuyến đối đầu với nhau, tạo ra những bi kịch trong cuộc đời họ.

    -KẺ BẮC NGƯỜI NAM.

    Ông Trần Văn Hương sinh năm 1902 tại làng Long Châu, quận Châu Thành (nay là thành phố Vĩnh Long), tỉnh Vĩnh Long trong một gia đình nghèo. 

    Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia đình, Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư phạm… Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Collège Le Myre De Villers tại Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà ông đã theo học mấy năm trước. 

    Thời gian 1943-1945, ông Hương là giáo sư dạy môn văn chương và luận lý tại trường này. Ông đã từng đào tạo nhiều học trò nổi tiếng (tướng Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, cũng tự nhận là một học trò của ông) và từng giữ chức vụ Đốc học Tây Ninh.

    “Cách mạng tháng Tám 1945“ nổ ra, ông tham gia chính quyền Việt Minh với tư cách nhân sĩ tự do. 

    Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến tỉnh Tây Ninh. 

    Tuy nhiên, năm 1946, do biết lực lượng Việt Minh là Cộng sản quy chụp cho nhiều trí thức là Việt gian rồi đem thủ tiêu nên ông bỏ về quê sống ẩn dật và tuyên bố bất hợp tác với cả chính quyền Việt Minh lẫn Pháp và Cộng hòa tự trị Nam Kỳ, sau này là Quốc gia Việt Nam.

    Ông bà Trần Văn Hương chỉ có hai người con trai.

    Người con cả là Trần Văn Dõi, sinh năm 1924. 

    Khi kháng chiến chống pháp nổi lên, đang theo học tại trường “College de Cần Thơ.” ông Dõi bỏ học theo Việt Minh. 

    Trong hồi ký ông Trần Văn Dõi có kể:

    "Mình báo cho ba biết mình sẽ đi xa. Ông cụ hơi ngạc nhiên, không cản nhưng muốn mình chậm lại chờ ông cụ ngẫm chừng thời cuộc. Lúc này phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa đang đàm phán với Pháp ở Fontainebleau. Ông cụ cho biết quyết không trở lại làm việc cho Pháp hoặc một chính phủ tay sai nào. Nhưng đi với chính phủ cộng sản thì cũng cần suy nghĩ thêm...

    Mình nói cho ông cụ biết mình ra đi trước tiên là xa cái gia đình quá ngột ngạt hiện nay và kế đó là vì nhiệm vụ của người thanh niên trước vận nước. Đây là lần đầu tiên mình có phản ứng mạnh và nói thẳng nói thật với ông cụ...".

    Vì bất đồng với cha về con đường lựa chọn tương lai, nên khi khai lí lịch ông không muốn liên lụy và gặp các rắc rối, ông Dõi đã cùng người bạn kháng chiến tên Nho làm giấy tờ giả trà trộn vào số đông đồng bào người Bắc được Pháp cho hồi hương lên tàu của Pháp, ra Bắc nhận nhiệm vụ chuyển vũ khí vào Nam với cái tên là Lưu Vĩnh Châu (Lấy theo họ mẹ)

    Ngày 4-10-1946, ông Trần Văn Dõi đặt chân lên đất Bắc ở Hải Phòng, bắt đầu cuộc đời người lính Việt Minh, lên đến đại úy, tiểu đoàn trưởng...

    Trong khi đó người cha Trần Văn Hương cũng dần về Sài Gòn làm tiệm thuốc tây rồi bước vào cuộc đời chính trị trái ngược con mình, với các chức vụ đô trưởng Sài Gòn, phó thủ tướng, thủ tướng rồi phó tổng thống, tổng thống Việt Nam cộng hòa. Hai cha con vẫn ở chung một Tổ quốc nhưng cách xa nhau hoàn toàn…

    Cuộc đời thăng trầm, gian nan, nguy hiểm của người cha làm tổng thống VNCH và người con là sĩ quan quân đội Bắc Việt Nam tiếp theo như thế nào cho đến cuối cuộc đời, xin đọc tiếp ở phần sau.

    PHẦN 5

    Một cuộc chiến không phân biệt được bên nào chính nghĩa, bạo tàn – kéo dài dai dẳng, lịch sử không thể phán quyết để lại nỗi đau lòng lòng trong nhiều gia đình cả ở hai bên chiến tuyến, hận thù không chấm dứt đó là bi kịch của một dân tộc.

    Những câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta cảm nhận được bi kịch của một cuộc chiến mang tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM”

    Câu chuyện thứ hai:

    ĐOÀN TỤ MUỘN MÀNG.

    -CUỘC ĐỜI CHÍNH TRỊ ĐẦY THĂNG TRẦM CỦA TỔNG THỐNG TRẦN VĂN HƯƠNG.

    Dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa ông Trần Văn Hương là chính trị gia dân sự, một nhân sĩ có uy tín lớn, được trọng dụng trong các chính phủ được thành lập dưới thời thủ tướng Ngô Đình Diệm và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cả giai đoạn “nổi loạn” của phái quân đội sau khi làm đảo chính lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. 

    Ông Trần văn Hương đã hai lần được mời và bổ nhiệm đảm trách chức vụ Ðô Trưởng Sài Gòn:

    • Lần đầu vào năm 1955 sau khi Hiệp định Genève chia hai đất nước Việt Nam được ký kết, do cố Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm;

    • Lần thứ hai, sau khi chính quyền Ngô Ðình Diệm bị lật đổ vào năm 1963, ông Trần Văn Hương lại được bổ nhiệm làm Ðô Trưởng Sài Gòn.

    Và hai lần được mời làm Thủ tướng:

    • Lần đầu vào Tháng 11 năm 1964, ông được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu bổ nhiệm làm Thủ Tướng Chính Phủ (1964-1965) và lập nội các, giữa lúc tình hình chính trị vô cùng căng thẳng.

    • Lần thứ hai vào năm 1968, trước tình hình chính trị, quân sự, kinh tế suy sụp trầm trọng ông nhận lời Tổng thống Thiệu ra làm Thủ tướng lần thứ hai (1968 -1969).

    Lần chấp chính thứ ba là Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, khi ông cùng Nguyễn Văn Thiệu liên danh ứng cử và đắc cử chức vụ Phó tổng thống nhiệm kỳ 1971-1975.

    Trong bối cảnh chính trị Miền Nam bị lũng đoạn bởi các phe phái trong quân đội, và liên miên các cuộc đảo chính, cuộc đời của ông Trần Văn Hương cũng đầy sóng gió.

    Sau Hiệp định Genève, năm 1955, ông ra làm đô trưởng Sài Gòn trong chính quyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm một thời gian ngắn. 

    Sau đó, ông từ chức để phản đối chính sách độc tài gia đình trị của Ngô Đình Diệm thời Đệ Nhất Cộng hòa. 

    Năm 1960, ông cùng 17 nhân sĩ thành lập nhóm Tự do Tiến bộ, tổ chức họp báo tại khách sạn Caravelle (thường được gọi là "nhóm Caravelle"), chính thức xác nhận địa vị đối lập với chính quyền. Khi cuộc đảo chính của đại tá Nguyễn Chánh Thi đứng đầu nổ ra, nhóm đã tuyên bố ủng hộ.

    Cuộc đảo chính thất bại ông cùng 17 vị nhân sĩ nhóm Caravelle bị chính quyền bắt giam, trong đó có Phan Khắc Sửu. Trong tù, ông có viết một tập thơ lấy tên là Lao trung lãnh vận (tức "Những vần thơ lạnh lẽo ở trong tù").

    Tuy nhiên đến năm 1963 tướng Dương Văn Minh đã tiến hành đảo chính lật đổ và giết chết anh em tổng thống Ngô Đình Diệm.

    Trong thời gian 18 tháng sau cuộc đảo chính 1963, miền Nam phải chứng kiến hơn 10 cuộc khủng hoảng chính trị Phe quân đội lần lượt hạ bệ lẫn nhau cùng những chính phủ dân sự liên tiếp được dựng lên rồi lại phải rút lui. Cùng khi đó về mặt xã hội, các khối Phật giáo và Công giáo cũng nhiều lần xuống đường biểu tình gây áp lực. 

    Để cứu vãn khủng hoảng chính trị kéo dài, một Ủy Ban Lãnh đạo Lâm thời được thành lập (Tam đầu chế).

    Ngày 27 tháng 9, Thượng Hội đồng bầu Phan Khắc Sửu làm Chủ tịch.

    Thượng Hội đồng soạn thảo Ước pháp ngày 20 tháng 10 năm 1964 để thay thế cho Hiến chương lâm thời ngày 4 tháng 11 năm 1963, vốn đặt quyền lực vào tay quân đội, về danh nghĩa trao chủ quyền quốc gia lại cho đại diện dân cử đảm nhiệm. 

    Ngày 24 tháng 10, Phan Khắc Sửu được Thượng Hội đồng đề cử vào ngôi vị Quốc trưởng.

    Sau khi nhậm chức Quốc trưởng, ngày 4 tháng 11 năm 1964, ông đã bổ nhiệm Trần Văn Hương làm thủ tướng, tức là vị thủ tướng dân sự đầu tiên kể từ khi nền Đệ Nhất Cộng hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm bị phe quân đội lật đổ. 

    Chính phủ Trần Văn Hương nhanh chóng bị tê liệt bởi sự phản đối của nhiều giới cũng như thiếu hợp tác của Hội đồng Quân nhân.

    Chính phủ của Trần Văn Hương không tồn tại được lâu vì ngày 27 tháng 1 năm 1965, tướng Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý, lật đổ chính quyền dân sự và Quốc trưởng Phan Khắc Sửu bị truất phế. Trần Văn Hương cũng bị bắt và quản thúc một thời gian ở Vũng Tàu.

    Để chấm dứt tình trạng rối ren về chính trị, tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ điều hành tuyên bố mở cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 3 tháng 9. Sau bầu cử Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống VNCH.

    Năm 1968, để tạo ảnh hưởng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời ông Trần Văn Hương ra làm Thủ tướng lần thứ hai.

    Năm 1971, ông Trần Văn Hương cùng Nguyễn Văn Thiệu liên danh ứng cử và đắc cử chức vụ Phó tổng thống nhiệm kỳ 1971-1975.

    Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải tuyên bố từ chức và trao quyền lại cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Ông chỉ nắm chức vụ trong 7 ngày. 

    Ngày 28 tháng 4, ông đã trao quyền lãnh đạo cho tướng Dương Văn Minh để tìm cách điều đình với lực lượng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đang tiến vào sát thủ đô Sài Gòn. 

    Ông (TVH) được xem là vị tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa qua bầu cử toàn dân.

    FB Anh Quốc


    Không có nhận xét nào