Header Ads

  • Breaking News

    Nguy hại của việc học lịch sử phiến diện, sơ lược

    Mạc Văn Trang

    07/11/2025



    Chuyện TP Hồ Chí Minh đặt tên đường phố Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, Vua Gia Long và nhà bác học Trương Vĩnh Ký là dựa vào Hội đồng chuyên môn - gồm các nhà nghiên cứu Lịch sử, Văn hoá có uy tín đề xuất và Hội đồng thành phố phê chuẩn.

    Nhưng có những ý kiến phản đối, đưa ra quan điểm phiến diện, hiểu biết hẹp hòi, mà thái độ thù hận, lời lẽ cực đoan. Họ cho rằng việc đặt tên đường phố cho những người ấy là “lật sử”, “phản bội”... Và nguy hiểm là khá đông người vào hưởng ứng, tán tụng, như bài viết của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, trong đường link dưới đây.

    (https://www.facebook.com/nguyen.thanh.tuan.419229/posts/1354267346338277

    Bài này đã có 8,1k likes, 2,2k bình luận và hơn 600 lượt chia sẻ).

    Với vua Gia Long có thể còn tính “công” và “tội”. Còn đối với Tả quân Lê Văn Duyệt và nhà bác học Trương Vĩnh Ký mà họ cũng sổ toẹt thì không còn gì để nói!

    Từ đây nên rút ra mấy điều:

    1. Sử phải được viết khách quan, trung thực. Tình trạng, người thắng cuộc, tha hồ tụng ca bên mình, bôi nhọ bên thua; hoặc nhà chính trị nói mấy câu lên án kẻ địch, trong bối cảnh nào đó, rồi đóng đinh vào sử sách như chân lý, và cứ thế truyền bá là Chính sử, thì thật nguy hiểm cho hậu thế.

    2. Dạy sử phải có tranh cãi/ thảo luận từ nhiều góc độ để từ đó có nhận thức sâu sắc, hài hòa về các nhân vật lịch sử. “Công” - “Tội” của mỗi nhân vật, mỗi triều đại, phải căn cứ trên lợi ích trường tồn của dân tộc, đất nước; phải thấu hiểu hoàn cảnh lịch sử phức tạp, éo le ra sao trong thời đại đó; phải biết kính trọng, thấu hiểu và thương xót thân phận mỗi nhân vật lịch sử như Tổ tiên, ông bà mình... Từ đó mới thận trọng đưa ra những đánh giá và rút ra bài học gì cho hôm nay, chứ không phải chỉ để yêu - ghét, tụng ca - căm thù… 

    3. Giáo dục cho học sinh và tất cả con cháu chúng ta, “Biết thì thưa thốt, không biết, dựa cột mà nghe”! Hãy biết khiêm tốn, học hỏi, lắng nghe, thấu hiểu, đừng nhân danh “yêu nước”, rồi nói bừa, xúc phạm tiền nhân; làm như vậy là tự bộc lộ sự thiếu giáo dục của mình và gây vẩn đục bầu không khí văn hoá, xã hội.

    VÍ DỤ VỀ VUA GIA LONG

    Nhiều người phản đối, lên án Vua Gia Long chỉ nghe một câu: “Cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về giày mả tổ”; “vì vậy mà ta mất nước, chịu 80 năm nô lệ thực dân Pháp”…

    Họ không cần hiểu bối cảnh lịch sử. Trên thế giới bao nhiêu nước “không cõng rắn” mà thực dân xâm lược, đô hộ, còn mất cả giống nòi, mất tên nước, mất ngôn ngữ, phong tục…

    Nguyễn Ánh không “cõng rắn” Pháp vào xâm lược nước ta thì có thể Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan cũng sẽ xâm lược thôi. Thời đại thực dân là thế! Có nước còn bị hết bọn thực dân này đến bọn khác tranh giành, xâm lược mấy lần đau thương… (Nói gần ta: Indonesia bị Hà Lan cai trị hơn 200 năm, rồi Anh, Nhật Bản cai trị; Philippines bị Tây Ban Nha cai trị hơn 300 năm, rồi Mỹ, Nhật cai trị; Malaysia bị Bồ Đào Nha cai trị hơn 100 năm, rồi Hà Lan, Anh, Nhật cai trị). 

    May mắn, nước ta chỉ có Pháp cai trị gần 80 năm (Nếu tính từ Hòa ước Giáp Thân (1884), ký kết giữa nhà Nguyễn và Pháp, mở đầu thời Pháp thuộc hoàn toàn của Việt Nam đến 1945 thì chỉ 61 năm). Và Pháp còn để lại cho Việt Nam nhiều giá trị văn minh quý báu.

    Cho nên cái gọi là “TỘI” của Nguyễn Ánh thực ra là quy kết một cách võ đoán, không đặt trong bối cảnh thế giới của thời đại thực dân.

    Còn “CÔNG” của Nguyễn Ánh (vua Gia Long) với đất nước, dân tộc này thì lớn lắm.

    1. Thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân tranh Trịnh - Nguyễn. (Mặc dù Quang Trung có công đại phá quân Thanh và thống nhất Bắc -Nam, nhưng chưa ổn định được đất nước, thì Nguyễn Ánh đã giành lại chính quyền)

    Nguyễn Ánh (lên ngôi năm 1802, lấy niên hiệu Gia Long) đã thống nhất lãnh thổ từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Ông đặt quốc hiệu nước ta là “Việt Nam” (1804) và đặt nền móng cho nhà Nguyễn, giữ vững đất nước hơn 140 năm (1802–1945).

    2. Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước thống nhất.

    Sau khi lên ngôi, Gia Long tổ chức lại hành chính cả nước, giúp quản lý thống nhất sau thời gian dài chia cắt.

    Ông soạn luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ), bộ luật thành văn đầu tiên của nhà Nguyễn, dựa trên luật Hồng Đức và pháp luật nhà Thanh, góp phần vào ổn định trật tự xã hội pháp trị dưới triều Nguyễn.

    3. Mở rộng và củng cố lãnh thổ.

    Gia Long hoàn thiện việc xác lập chủ quyền ở vùng Nam Bộ và Tây Nam Bộ, tiếp tục công cuộc Nam tiến của chúa Nguyễn.

    Củng cố biên giới, chủ quyền trên biển, đưa các đảo xa như Hoàng Sa, Trường Sa vào bản đồ hành chính. Chủ quyền quốc gia, biên giới với các nước láng giềng được ổn định.

    4. Phát triển xây dựng và hạ tầng

    Ông cho xây dựng kinh thành Huế, một công trình lớn mang tính biểu tượng của nhà Nguyễn và văn hóa Việt Nam.

    Mở mang đường sá, kênh rạch, nhất là ở miền Nam — giúp giao thương và sản xuất phát triển hơn (đào kênh Vĩnh Tế để nối liền Châu Đốc – Hà Tiên, dài hơn 90km, vừa phục vụ sản xuất, an ninh, quốc phòng, vừa khẳng định chủ quyền biên giới Tây Nam)...

    5. Chính sách đối ngoại mềm dẻo, khôn khéo, giữ được độc lập tương đối. Dù từng cầu viện Pháp, nhưng sau khi lên ngôi, Gia Long không cho Pháp can thiệp sâu vào chính quyền, vẫn duy trì độc lập tương đối của Việt Nam trong bối cảnh khu vực bị thực dân phương Tây tranh giành, xâu xé dữ dội.

    Dân ta vẫn nói tiếng Việt, chữ viết lại dùng ký tự La tinh, để lại kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt phát triển rực rỡ cho muôn đời con cháu… 

    Tóm lại, “Tội” và “Công” của Nguyễn Ánh, vua Gia Long như vậy, có đáng kết tội hay nên ghi ơn?

    08/11/2025

    MVT

    https://www.facebook.com/share/1G1gbpp2Ej/


    Không có nhận xét nào