Tim Phan
01/12/2025
"... Phát ngôn của bà Takaichi có thể được nhận định là một “cuộc cách mạng” trong chính sách đối ngoại đối với tam giác Nhật - Trung - Đài. Mức độ thiện cảm của công chúng Nhật Bản dành cho Đài Loan tương đối cao và có tới 48,8% người dân ủng hộ việc can thiệp vào cuộc xung đột quân sự ở Đài Loan".
Tình trạng khẩn của Đài Loan cũng là tình trạng khẩn của Nhật Bản - (C): Gemini AI
Chưa đầy một tháng kể từ khi nhậm chức, nữ Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản Takaichi Sanae—một chính trị gia bảo thủ thân Đài Loan và cứng rắn với Trung Quốc—đã vạch ra một “lằn ranh đỏ” mới đối với âm mưu thôn tính Đài Loan của Bắc Kinh.
Phát biểu gần đây của Thủ tướng Takaichi Sanae liên quan đến vai trò của Tokyo trong cuộc chiến tiềm tàng xảy ra ở Eo biển Đài Loan đã dấy lên tranh luận rằng liệu đây có phải là chỉ dấu cho thấy chính sách Đài Loan của Nhật Bản sẽ thay đổi theo hướng “rõ ràng về chiến lược” thay vì duy trì chính sách mơ hồ (ambiguity) suốt năm thập kỷ qua.
Cụ thể, trong một phiên họp tại Quốc hội Nhật Bản vào ngày 7/11, bà Takaichi nói rằng việc Trung Quốc sử dụng vũ lực nhắm vào Đài Loan, bao gồm sự phong tỏa hàng hải (naval blockade), sẽ cấu thành “nguy cơ đe dọa sự tồn vong” (survival-threatening situation) của Nhật Bản, buộc Tokyo phải sử dụng quyền tự vệ tập thể giới hạn (limited collective self-defense) để đáp trả. Đây là lần đầu tiên một đương kim Thủ tướng Nhật Bản đưa ra tuyên bố cụ thể và rõ ràng như vậy về mối liên quan giữa một cuộc khủng hoảng tại Đài Loan (Taiwan emergency) với lợi ích quốc gia và sự tồn vong của Nhật Bản.
Tuy nhiên, Trung Quốc—quốc gia vẫn còn ám ảnh bởi thời kỳ đô hộ của đế quốc Nhật Bản—tỏ ra vô cùng giận dữ với phát ngôn công khai chưa có tiền lệ của Thủ tướng Nhật Bản, cho rằng đây là một phần trong nỗ lực rộng lớn nhằm kiềm chế Bắc Kinh. Cách thức phản ứng của Trung Quốc đối với Nhật Bản có thể phần nào dự đoán được dựa trên các chính sách cưỡng ép mà Bắc Kinh nhắm vào các láng giềng trong những năm gần đây: đầu tiên là chuỗi phản đối về mặt ngoại giao, sau đó là điều phương tiện quân sự vào vùng biển tranh chấp ở Biển Hoa Đông để phô trương sức mạnh cũng như đưa ra các biện pháp trừng phạt kinh tế (cho đến ngày 22/11, Trung Quốc đã áp đặt hạn chế lên ngành du lịch và hải sản của Nhật Bản).
Đáng chú ý, phát biểu của bà Takaichi đã kích động sự trở lại của ngoại giao chiến lang (wolf-warrior diplomacy) mà Trung Quốc đã sử dụng trong thời đại dịch Covid-19. Trong một phản ứng chưa có tiền lệ về ngoại giao, Tổng Lãnh sự Trung Quốc tại Osaka Tiết Kiếm (Xue Jian) chia sẻ một bài viết (hiện đã bị xoá đi) ẩn ý “cắt cổ” (the dirty neck that sticks itself in must be cut off) nữ Thủ tướng Nhật Bản, thổi bùng lên cuộc đối đầu ngoại giao song phương.
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào năm 1972, chính sách nhất quán của Nhật Bản là thừa nhận “một Trung Quốc” (One China) trong quan hệ với Bắc Kinh, trong khi từng bước tăng cường hợp tác với Đài Loan. Đồng thời, Tokyo cũng duy trì chính sách “mơ hồ về chiến lược” đối với trường hợp xảy ra một cuộc khủng hoảng tiềm tàng ở Eo biển Đài Loan, nghĩa là Tokyo không tuyên bố rõ ràng sách lược đối phó của nước này, tạo ra vùng xám cho các hành động quân sự trong tương lai. Chính sách này được cho là nhằm cân bằng giữa sự răn đe (deterrence) và kiềm chế (restraint), qua đó giúp Tokyo có nhiều lựa chọn và không gian hành động hơn.
Trong khi đó, Nhật Bản và Đài Loan đã duy trì mối quan hệ không chính thức nhưng phát triển ngày càng chặt chẽ, đặc biệt là từ thời cố Thủ tướng Shinzo Abe—người đã xây dựng chính sách thân thiện với Đài Loan thông qua việc gọi hòn đảo dân chủ này là “đối tác quan trọng” (important partner) của Nhật Bản. Mặc dù phát ngôn mới của Thủ tướng Takaichi—người được xem là học trò của Abe—không ngay lập tức thay đổi chính sách Đài Loan và các yếu tố pháp lý liên quan nhưng là sự kế thừa của một bước đi lớn trong việc ủng hộ chủ quyền của Đài Loan, bao gồm khả năng can dự quân sự chống lại cuộc tấn công của Trung Quốc. Trước đây, cố Thủ tướng Abe đã tuyên bố rằng “trường hợp khẩn cấp ở Đài Loan cũng là của Nhật Bản và do đó cũng là tình trạng khẩn cấp đối với liên minh Nhật - Mỹ”, ám chỉ rằng vấn đề an ninh khu vực Đài Loan liên quan đến “sự tồn vong” của Tokyo.
Dưới sự cầm quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc đã nhanh chóng hiện đại hóa quân đội, tăng cường sự hiện diện quân sự ở Biển Hoa Đông, Eo biển Đài Loan và Biển Đông, và không ngần ngại gây hấn với các quốc gia láng giềng. Bắc Kinh cũng không từ bỏ âm mưu thôn tính Đài Loan, kể cả thông qua biện pháp vũ trang. Điều này đặt ra mối nguy cấp đối với an ninh của Nhật Bản và sự ổn định của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mà Tokyo đang nổi lên là một nhân tố quan trọng tại đây. Chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc được thúc đẩy bởi nền chính trị độc tài thông qua sự phô diễn sức mạnh quân sự đi ngược lại hoàn toàn với nguyên tắc, lợi ích và giá trị của Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở của Nhật Bản.
Trong bối cảnh đó, Nhật Bản từng bước gắn an ninh của Đài Loan với tổng thể chiến lược quốc phòng quốc gia của mình dựa trên các cân nhắc thực tế về địa chiến lược và sự bất an về an ninh kinh tế. Đài Loan nằm ở phía cực nam của Nhật Bản (cách chỉ khoảng 70 dặm), và nằm trên Chuỗi đảo thứ nhất (bao gồm Đài Loan, Okinawa và Philippines) ở phía Tây Thái Bình Dương, vốn giữ vai trò chiến lược to lớn trong việc kiềm chế sự bành trướng hải quân của Trung Quốc và đảm bảo vị thế của liên minh Mỹ - Nhật. Bên cạnh đó, Đài Loan nằm ở nơi giao thoa của các tuyến hàng hải nhộn nhịp của quốc tế, do đó nếu xảy ra một cuộc phong tỏa quân sự ở Eo biển Đài Loan hoặc trường hợp xấu nhất là chủ quyền của Đài Loan rơi vào tay Trung Quốc, Nhật Bản sẽ đối mặt với mối đe dọa về kinh tế nghiêm trọng (đặc biệt là các nguồn cung năng lượng và khoáng sản) và quyền lực của nước này tại khu vực sẽ bị xói mòn. Hơn nữa, nếu một cuộc xung đột nổ ra ở Đài Loan và Mỹ can thiệp vào, nguy cơ rất cao là các căn cứ quân sự của Mỹ trên lãnh thổ Nhật Bản sẽ bị Trung Quốc tấn công để ngăn chặn sự hỗ trợ từ Washington.
Nhận thức được mối đe dọa ngày càng gia tăng, Nhật Bản đã bắt đầu xem xét lại chính sách quốc phòng của mình, trong đó khẳng định tầm quan trọng cốt lõi của Đài Loan đối với an ninh Nhật Bản. Năm 2021, Sách trắng Quốc phòng Nhật Bản lần đầu tiên đề cập đến tầm quan trọng của sự ổn định ở Eo biển Đài Loan đối với an ninh của Nhật Bản và lưu ý cán cân quân sự đang nghiêng về phía Trung Quốc. Ba tài liệu chiến lược quốc gia được công bố vào năm 2022, trong đó có Chiến lược An ninh Quốc gia của Nhật Bản, cũng đề cập nội dung tương tự, cho thấy Tokyo sẵn sàng phối hợp với đồng minh là Mỹ để bảo vệ Đài Loan trước sự xâm lược của Bắc Kinh.
Phát ngôn được-cho-là “gây sốc” của bà Takaichi về vai trò của Nhật Bản trong cuộc khủng hoảng ở Đài Loan dựa vào sự đánh giá mối đe dọa tới sự tồn vong là nhất quán và cụ thể hoá đạo luật an ninh năm 2015 của Tokyo, trong đó dỡ bỏ các hạn chế đối với việc triển khai Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản ở nước ngoài. Đạo luật, mặc dù vẫn còn mơ hồ, nêu rõ rằng “khi một cuộc tấn công vũ trang nhằm vào một quốc gia có quan hệ gần gũi với Nhật Bản và hậu quả là đe dọa sự tồn vong của Nhật Bản” thì Tokyo sẽ viện dẫn quyền “tự vệ tập thể”.
Thay vì “vượt qua lằn ranh đỏ” như Trung Quốc cáo buộc, phát ngôn của bà Takaichi dường như đang đặt ra một “lằn ranh đỏ” mới đối với Bắc Kinh. Thay vì mơ hồ về định nghĩa và mức độ cấu thành mối đe dọa đến sự tồn vong của Nhật Bản, bà Takaichi viện dẫn trường hợp rõ ràng và cụ thể mà có thể sẽ định hình hoàn toàn chính sách Đài Loan trong thời gian tới. Nói cách khác, chính sách Đài Loan của Nhật Bản đang dần rõ ràng về chiến lược và Trung Quốc cần đối mặt với thực tế này.
Những quan điểm ủng hộ chính sách “mơ hồ về chiến lược” lập luận rằng Tokyo càng duy trì mức độ mập mờ thì nước này càng có nhiều dư địa và sự linh hoạt để phản ứng tùy theo tình hình và diễn biến thực tế của hành vi gây hấn. Do đó, những cam kết hoặc tuyên bố công khai như vậy sẽ hạn chế khả năng đưa ra quyết định an ninh phù hợp với hoàn cảnh của Tokyo và làm tổn hại đến an ninh quốc gia. Nói cách khác, việc để cho đối thủ mơ hồ về ý định của mình sẽ tối đa hóa tính linh hoạt trong việc hoạch định chiến lược và phản ứng quân sự.
Tuy nhiên, bối cảnh địa chính trị khu vực hiện nay chứng minh sự mơ hồ chiến lược không còn nhiều giá trị răn đe. Về diễn ngôn, Trung Quốc cam kết trở thành lực lượng duy trì hòa bình và ổn định khu vực, đồng thời đặt ra các “lằn ranh đỏ” mà các quốc gia láng giềng không được xâm phạm. Tuy nhiên, trên thực địa, Bắc Kinh lại từng bước tạo ra “sự đã rồi” (fait accompli) thông qua các biện pháp gây hấn nhưng ở dưới ngưỡng chiến tranh. Vào năm 2022, trong khuôn khổ tập trận quy mô lớn nhằm phản ứng lại chuyến thăm Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi, Trung Quốc đã phóng năm quả tên lửa đạn đạo vào vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản. Bắc Kinh cũng sử dụng chiến thuật vùng xám (gray-zone tactics) thường xuyên xâm phạm vùng trời và vùng nước của Tokyo. Sau phát ngôn của bà Takaichi, lực lượng hải cảnh Trung Quốc đã điều tàu đi qua vùng biển quanh quần đảo Senkaku và triển khai máy bay không người lái quân sự bay qua lãnh thổ vùng lãnh thổ cực nam của Nhật Bản, gần với Đài Loan. Những hành động này cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng phô trương ưu thế quân sự để tăng cường sự hiện diện và ảnh hưởng an ninh ở các khu vực xung quanh Đài Loan và Nhật Bản nhằm thay đổi nguyên trạng và thách thức trật tự thế giới hiện nay.
Do đó, một tuyên bố rõ ràng của Thủ tướng Nhật Bản có thể được hiểu là việc vạch ra một điểm giới hạn để hành động trong trường hợp bất ổn leo thang tại khu vực xung quanh Đài Loan, đồng thời phát đi tín hiệu răn đe tới sự phiêu lưu quân sự của Trung Quốc, qua đó giảm thiểu những rủi ro từ việc tính toán sai lầm. Nói cách khác, điều này là sự minh định hóa về lập trường của Tokyo liên quan đến việc có can thiệp hay không can thiệp vào cuộc xung đột tiềm tàng ở Eo biển Đài Loan và không nhất thiết là sự thay đổi chính sách “một Trung Quốc” của Nhật Bản. Bằng cách này, Tokyo đang gửi đi thông điệp rằng quốc gia này sẽ không dung thứ cho bất kỳ bên nào đơn phương phá hoại nguyên trạng và ổn định khu vực, đồng thời vẫn để ngỏ cánh cửa đối thoại. Bên cạnh đó, lập trường rõ ràng của Nhật Bản cũng sẽ trấn an Mỹ về cam kết của Tokyo đối với an ninh khu vực, trong khi thể hiện sự đoàn kết đối với Đài Loan.
***
Phát ngôn của bà Takaichi có thể được nhận định là một “cuộc cách mạng” trong chính sách đối ngoại đối với tam giác Nhật - Trung - Đài. Mức độ thiện cảm của công chúng Nhật Bản dành cho Đài Loan tương đối cao và có tới 48,8% người dân ủng hộ việc can thiệp vào cuộc xung đột quân sự ở Đài Loan. Thế nhưng, để một chính sách rõ ràng về chiến lược đối với Đài Loan có thể tối đa hóa hiệu quả răn đe và đảm bảo tính chính danh cũng như sự đồng tình của công chúng, chính phủ Nhật Bản cần tiến hành những điều chỉnh thích hợp về mặt chính sách và thẩm quyền pháp lý, đặc biệt liên quan đến bản chất mối quan hệ không chính thức hiện hay với Đài Loan. Ngoài ra, Nhật Bản cần phải tăng cường liên lạc và tham vấn với Mỹ (công khai hoặc bí mật) về các kế hoạch phối hợp bảo vệ Đài Loan trong trường hợp Trung Quốc tấn công. Cuối cùng, khi lập trường đã trở nên minh định, Tokyo cần khuyến khích Đài Loan tăng cường năng lực tự vệ hơn nữa nhằm duy trì khả năng chống chịu trước sự xâm lược của Trung Quốc.
VSF
https://www.vsforum.org/article/nhat-ban-dang-ro-rang-ve-chien-luoc-doi-voi-van-de-dai-loan
Không có nhận xét nào