Gs. Nguyễn Văn Tuấn
02/12/2025
"... Kết quả là, các nhà khoa học Việt Nam đã "đóng góp" 459 bài và hàng chục tỉ đồng ấn phí xuất bản, nhưng giờ đây những bài báo đó có thể không còn giá trị khoa học. Một lãng phí lớn".
Tập san Science of the Total Environment (STE) vừa mới bị loại bỏ khỏi danh mục WoS, và sự việc được coi là một sự sụp đổ [1]. Điều đáng chú ý là các nhà khoa học Việt Nam đã "đóng góp" 459 bài báo và hàng chục tỉ đồng cho STE trong thời gian 20 năm qua.
STE là một tập san có qui mô lớn (mega journal) do tập đoàn xuất bản Elsevier lập ra. Mỗi năm (trong thời gian gần đây), STE công bố gần 10,000 bài báo, tức 770 bài mỗi tháng. Với con số này, STE đứng vào hàng ngũ các siêu tập san như ACS Omega, PLoS ONE, Sci Reports, v.v.
(Để so sánh [một cách khập khiễng nhưng có ý], tập san Journal of Bone and Mineral Research của chúng tôi, được coi là số 1 trong chuyên ngành xương, công bố chỉ chừng 10-15 bài mỗi tháng).
STE là tập san thuộc nhóm Q1 (top 25%), và có chỉ số tác động (impact factor) là 8.0, tức khá cao. Trên trang nhà, STE cho biết họ chỉ chấp nhận công bố 17% các bản thảo. Dựa vào con số này, có thể nói STE là một tập san khá chọn lọc (selective journal).
Thế nhưng sự chọn lọc của STE có một mặt khác không phải chọn lọc. STE công bố những bài báo đủ thứ chủ đề, từ nghiên cứu môi sinh, COVID-19, y học cổ truyền, sinh học phân tử, dịch tễ học, y tế công cộng, đến cả y học lâm sàng! Họ còn công bố cả những bài báo về bùa ngải trong điều trị bệnh! Nói chung, đây là một tập san loại "hầm bà lằn xán cấu".
Điều đáng ngạc nhiên là thời gian từ lúc nộp bài đến quyết định chỉ ... 5 ngày. Quan trọng hơn, thời gian từ lúc nộp bài đến chấp nhận công bố chỉ ... 3 tháng. (Thông thường, đối với các tập san nghiêm túc, thời gian từ lúc nhận bài đến lúc chấp nhận là 6 tháng đến 12 tháng).
STE sụp đổ
Ngày 18/11/2025 Clarivate đã quyết định loại STE khỏi danh mục JCR (Journal Citation Reports).
Lí do Clarivate đưa ra là STE không còn đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng, sau khi phát hiện hàng chục bài báo có vấn đề. Clarivate liệt kê vài vấn đề chánh như sau.
Tốc độ tăng trưởng chóng mặt và chất lượng suy giảm. Theo tờ báo El Pais, dưới thời tổng biên tập Damià Barceló (2012 – tháng 3/2025) [2], STE đã tăng số lượng bài báo công bố gấp 10 lần chỉ trong một thập niên, đạt gần 10,000 bài mỗi năm. Tác giả phải trả ấn phí khoảng 4150 USD/bài, tạo động cơ tài chánh mạnh để chấp nhận gần như mọi bài gởi tới STE.
Các dấu hiệu bất thường và nghi ngờ gian lận [1]:
• 40% bài báo đến từ tác giả China và 8% từ tác giả Tây Ban Nha (gấp đôi tỉ lệ thông thường trong lãnh vực).
• Một trong những cơ quan công bố nhiều bài là Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Tây Ban Nha (CSIC), nơi mà Barceló từng làm việc đến năm 2024.
• Có ít nhứt 50 bài báo (nhiều bài của nhà sinh vật học Brazil Guilherme Malafaia, đồng tác giả thường xuyên với Barceló) đã bị thu hồi vì sử dụng bình duyệt (peer review) giả mạo, ghi tên các nhà khoa học thật mà không được sự đồng ý của họ.
• Có những bài báo vô lí từng được đăng: bùa ngọc bích phòng ngừa COVID-19, virus corona ở cá, độc tính thuốc diệt cỏ đối với rùa.
STE bị loại khỏi danh mục WoS cũng có nghĩa là những bài báo do nó công bố chẳng có giá trị khoa học gì cả. Các tác giả đã phí tiền.
Việt Nam đã đóng góp cho STE bao nhiêu?
STE là một địa chỉ phổ biến của các nhà khoa học Việt Nam. Theo dữ liệu WoS (tính tới ngày 2/12/2025), có 459 ấn phẩm có địa chỉ từ Việt Nam trên STE.
Số lượng bài báo có xu hướng tăng mạnh, đặc biệt từ năm 2015 trở lại đây. Giai đoạn trước năm 2010, số bài báo mỗi năm còn rất thấp, thường chỉ dao động từ 1 đến 4 bài. Từ năm 2015 đến 2020, số lượng công bố tăng đều, đạt đỉnh 98 bài vào năm 2021. Sau đó, số bài báo có giảm nhẹ trong các năm 2022 (52 bài) và 2023 (60 bài), nhưng vẫn duy trì ở mức cao hơn nhiều so với giai đoạn trước 2018.
Hơn 100 tác giả từ Việt Nam đã công bố bài báo trên STE trong thời gian 20 năm qua.
Các tác giả đến từ nhiều đại học, nhưng top 10 là: ĐH Quốc gia Hà Nội (VNU Hà Nội) dẫn đầu với 88 bài, tiếp theo là ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh (VNUHCM, 75 bài) và ĐH Duy Tân (72 bài).
Nhóm các trường quốc tế đóng góp đáng kể như ĐH Công nghệ Sydney (66 bài) và ĐH Kyonggi bên Nam Hàn (35 bài). Các đại học này có lẽ hợp tác với Việt Nam.
Trong khối các trường đại học và viện nghiên cứu, nhiều đơn vị có mức công bố khá cao. Chẳng hạn như ĐH Nguyễn Tất Thành, ĐH Tôn Đức Thắng, và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) với số bài dao động từ 53–54. Một số trường khác như ĐH Nông Lâm, ĐH Bách Khoa Hà Nội (HUST), ĐH Cần Thơ, ĐH Văn Lang đóng góp từ 15–21 bài.
Ấn phí của STE là 4150 USD/bài (dạng Mở). Có 86 bài công bối dưới dạng Mở, tức gần 10 tỉ đồng. Số còn lại có thể lên đến 20 tỉ đồng.
Bài học qua sự 'té ngã' của STE
Sự sụp đổ của STE cho chúng ta một số bài học quan trọng:
Bài học 1: Nhà nghiên cứu nên đánh giá tập san dựa trên nội dung thực tế và uy tín học thuật, thay vì chỉ nhìn vào xếp hạng.
STE từng thuộc nhóm Q1 (top 25%) với chỉ số tác động (impact factor) lên đến 8.0, và tỉ lệ chấp nhận chỉ 17%. Nghe có vẻ như một tập san chọn lọc. Tuy nhiên, với các bài báo vô lí (như bùa ngọc bích chống COVID-19 hay virus corona ở cá) cho thấy tập san này không chọn lọc.
Điều này cho thấy các chỉ số như Q1 hay IF có thể bị thao túng bởi số lượng bài báo khổng lồ và động cơ tài chánh (phí xuất bản cao lên đến 4150 USD/bài), chứ không phản ảnh giá trị khoa học thật sự.
Chất lượng khoa học thực sự không nằm ở nhãn Q1, mà nằm ở việc chọn đúng tập san nghiêm túc, chấp nhận quá trình bình duyệt lâu dài, và ưu tiên giá trị khoa học trên những chỉ số định lượng.
Bài học 2: Các nhà quản lí khoa học nên chuyển sang đánh giá dựa trên tác động thực tế (như trích dẫn chất lượng, ứng dụng thực tiễn) hoặc hệ thống đa chiều, tránh tạo động lực cho việc công bố quá nhiều ở các siêu tập san kém uy tín.
Ở Việt Nam, STE đã thu hút hàng trăm bài báo từ các trường đại học lớn như VNU Hà Nội (88 bài), VNUHCM (75 bài), và Duy Tân (72 bài), có lẽ vì xếp hạng Q1 giúp đáp ứng tiêu chí đánh giá, thưởng tiền, hoặc thăng tiến.
Tuy nhiên, việc STE bị loại khỏi WoS và JCR do gian lận (như bình duyệt giả mạo, thu hồi hàng chục bài) chứng tỏ hệ thống thưởng dựa trên Q1-Q4 có thể khuyến khích "chạy đua số lượng" thay vì chất lượng.
Kết quả là, các nhà khoa học Việt Nam đã "đóng góp" 459 bài và hàng chục tỉ đồng ấn phí xuất bản, nhưng giờ đây những bài báo đó có thể không còn giá trị khoa học. Một lãng phí lớn.
Bài học 3: Trước khi nộp bài, hãy kiểm tra lịch sử tập san (qua WoS, Scopus), thời gian bình duyệt trung bình, tỉ lệ thu hồi bài, và tránh các tập san có dấu hiệu đáng ngờ (questionable journal).
STE là thí dụ điển hình của một tập san "hầm bà lằn", công bố đủ loại chủ đề từ môi trường đến y học lâm sàng, với thời gian bình duyệt rất ngắn (chỉ 5 ngày quyết định, 3 tháng chấp nhận), trái ngược với các tập san nghiêm túc (6-12 tháng).
Điều này cho thấy STE có vẻ ưu tiên lợi nhuận hơn là khoa học. So sánh với các tạp chí chuyên ngành do các hiệp hội chuyên môn quản lí, rõ ràng chọn tập san phù hợp với lãnh vực nghiên cứu sẽ bảo đảm bài báo được đánh giá sâu sắc hơn.
Những bài học này không chỉ áp dụng cho STE mà còn cho toàn bộ hệ thống xuất bản khoa học hiện nay.
Vụ sụp đổ của Science of the Total Environment là hồi chuông cảnh tỉnh: tập san Q1 không phải là “tem bảo hành” chất lượng. Việc chạy theo chỉ số để đổi lấy tiền thưởng hay học hàm chỉ biến nhà khoa học thành khách hàng của những “xưởng in bài” trá hình.
____
[1] https://english.elpais.com/.../the-fall-of-a-prolific...
[2] Tổng biên tập “siêu năng suất”. Damià Barceló là một trong những nhà khoa học xuất bản nhiều nhất thế giới (khoảng 1,800 bài trong sự nghiệp, hơn 200 bài trên STE do mình làm tổng biên tập, trung bình 5 ngày 1 bài). Ông đôi khi vừa là tác giả vừa là biên tập phụ trách bài của mình. Ông đã từ chức tổng biên tập vào tháng 3/2025.
https://www.facebook.com/t.nguyen.2016
Không có nhận xét nào