25/12/2025
Cách đây 98 năm ngày 25-12-1927, một đội ngũ cách mạng dân tộc là Việt Nam Quốc Dân Đảng ra đời với ba mục tiêu đấu tranh:
1) DÂN TỘC ĐỘC LẬP – đánh đuổi thực dân xâm lược Pháp dành độc lập cho dân tộc
2) DÂN QUYỀN TỰ DO – Sau khi dành độc lập sẽ xây dựng một thể chế tự do dân chủ và tôn trọng nhân quyền
3) DÂN SINH HẠNH PHÚC – Chủ trương kinh tế thị trường tự do, mọi người dân có cơ hội để mưu cầu hạnh phúc cho cá nhân và gia đình trong thể chế dân chủ pháp trị, nhà nước giữ vai trò giúp đỡ tư nhân thăng tiến về kinh doanh.Đây là một tổ chức chính trị cách mạng đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Những thanh niên trẻ tân học đoạn tuyệt với chế độ phong kiến lạc hậu, thành lập một đảng chính trị với tư tưởng dân chủ tây phương (Jean-Jackques Rousseau, Montesquieu, cuộc cách mạng Pháp 1789, cách mạng Tân Hợi 1911….), tự lực đứng lên nhận lãnh sứ mạng lịch sử với ba mục tiêu đã đề ra. Cuộc cách mạng bùng nỗ với Tổng Khởi Nghĩa 10/02/1930, 13 vị lãnh đạo VNQDĐ trong đó có đảng trưởng Nguyễn Thái Học đã đền nợ nước tại Yên Báy ngày 17/06/1930. VNQDĐ đã, đang, và sẽ chiến đấu không ngừng để đạt được ba mục tiêu cao cả trên…….Nhân ngày Đảng Sinh thứ 91 của VNQDĐ (25/12/1927-25/12/2018) mời qúy độc giả đọc lại những giòng lịch sử đấu tranh cận đại còn vang vọng mãi đến ngàn sau…
THÀNH LẬP VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
TỔ CHỨC NAM ĐỒNG THƯ XÃ
Từ cuộc mưu sát Toàn quyền Merlin ở Sa Điện đến vụ bắt cóc cụ Phan Bội Châu đưa về giam ở ngục thất Hỏa Lò, Hà Nội; tiếp đến lễ an táng hai nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, trong những năm 1924, 1925, 1926 và 1927, phong trào chính trị trong nước thật sôi động.
Đáp ứng phong trào chính trị sôi động ấy, cuối năm 1925, ba thanh niên trí thức: Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân đứng ra tổ chức “NAM ĐỒNG THƯ XÔ (NĐTX) ở số 6 đường 96 khu Nam Đồng (trước bờ hồ Trúc Bạch, Hà Nội). NĐTX chuyên trước tác, dịch thuật và xuất bản các sách thuộc loại ái quốc như: Cách Mạng Trung Hoa, Lịch Sử Tôn Dật Tiên, Cách Mạng Thế Giới, Chủ Nghĩa Tam Dân, Cách Mạng Pháp 1789, các sách tư tưởng dân chủ của Rousseaux, Montesquier v.v… là loại sách phổ thông, bán giá bình dân, nên đã gây được một tiếng vang lớn và đã lôi cuốn một số thanh niên trí thức sinh viên thường lui tới. Nhưng đặc biệt cảm tình mật thiết hơn, có Nguyễn Thái Học, sinh viên trường Cao Đẳng Thương Mại, Phó Đức Chính, sinh viên trường Cao Đẳng Công Chính, Hồ Văn Mịch, sinh viên trường Cao Đẳng Sư Phạm. Ngoài ra còn có: Trần Vỹ, Lưu Văn Phùng, Vũ Hiển, sinh viên trường Cao Đẳng Y Khoa cũng thường hay lui tới. Họ thường gặp nhau, thảo luận say sưa những vấn đề chính trị trong nước cũng như ngoài nước.
Công tác hoạt động thường xuyên của nhóm thanh niên sinh viên này: Về xã hội, tổ chức lớp học buổi tối dạy chữ quốc ngữ miễn phí cho anh chị em lao động, gây quỹ tiết kiệm “Đồng Xu” cho giới thợ thuyền… Về chính trị, hô hào đồng bào tham dự đông đảo cuộc biểu tình đòi ân xá cho nhà cách mạng Phan Bội Châu, vận động đồng bào, nhất là giới sinh viên học sinh tham dự lễ truy điệu hai nhà chí sĩ Phan Chu Trinh và Lương Văn Can; và nhất là bí mật trực tiếp can thiệp với đồng bào ở Hải Phòng, không nên mắc mưu thâm độc của thực dân Pháp về vụ “xung đột, tẩy chay” với người Hoa Kiều.
Các thành viên trong Nam Đồng thư Xã
Bởi vậy mật thám Pháp để ý bắt đầu theo dõi từng người thường xuyên lui tới NĐTX.
Về sách xuất bản của NĐTX chúng để cho in xong rồi tịch thu, nhiều cuốn đã phát hành từ trước, chúng ra nghị định cấm lưu hành và tàng trữ. Số vốn đã ít lại bị hao mòn dần, đi tới quyết định đình chỉ công tác và xuất bản. Vào khoảng giữa năm 1927, người cột trụ của NĐTX là nhà giáo Phạm Tuấn Tài phải đổi lên tỉnh Tuyên Quang, nhưng hàng tháng, họ Phạm vẫn về Hà Nội sinh hoạt với các đồng chí.
Ở Tuyên Quang, Phạm Tuấn Tài vẫn bí mật tuyên truyền tổ chức được một nhóm tại đấy, đa số là những nhà giáo trẻ tuổi. Sau khi VNQDĐ chính thức thành lập, họ Phạm tránh sự để ý của mật thám, nên anh đã cử nhà giáo trẻ tuổi là Nguyễn Triệu Luật làm Đại Biểu Tỉnh Đảng bộ Tuyên Quang về Hà Nội họp Tổng Bộ sau này.
Ngày Đảng Sinh VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
Chủ Tịch VNQDĐ: Nguyễn Thái Học
Chưa chịu thất vọng hoàn toàn, tháng 6 năm 1927, Nguyễn Thái Học lại gửi đơn lên Thống Sứ Bắc Kỳ, xin phép xuất bản một nguyệt san lấy tên là “NAM THANH” với mục đích là phổ biến, nâng cao trình độ trí đức, thể dục cho đồng bào, ông khuyến cáo họ bỏ lối hư danh mà chú trọng về nông, công, thương nghiệp. Nhưng cũng không được nhà cầm quyền Pháp chấp nhận, viện lý do là địa chỉ không đúng. Sự thực bởi Nguyễn Thái Học ở trong tổ chức Nam Đồng Thư Xã, nên đã bi ghi vào “sổ đen” của sở mật thám Bắc Kỳ.
Trong khi ấy, tại tỉnh Bắc Ninh có một số dân dã anh hùng, đứng đầu là Quản Trạc và hai sĩ quan trong Cơ Binh Khố Đỏ tỉnh Bắc Ninh hợp cùng dư đảng của cụ Hoàng Hoa Thám, định dùng võ lực chiếm cứ yếu điểm quân sự quan trọng của Pháp quân ở Bắc Ninh và Đáp Cầu, làm một cuộc khởi nghĩa.
Có một đồng chí tiết lộ cho biết tại Hà Nội có nhóm Cách Mạng Nam Đồng, Quản Trạc liền phái Đại Biểu sang Hà Nội liên lạc; yêu cầu khi họ xuất quân thì nhờ nhóm “Cách Mạng Nam Đồng” giúp đỡ họ việc ném bom ngay tại Hà Nội, để cầm chân Pháp quân không thể tiếp cứu được cho Bắc Ninh, Đáp Cầu. Cuộc khởi nghĩa được dự định vào ngày 11/11/1927.
Sau khi tiếp xúc với Đại Biểu nhóm Bắc Ninh, nhóm Nam Đồng liền triệu tập cuộc họp để thảo luận vấn đề “Nên giúp hay không?”. Khi lấy biểu quyết, số tán thành “Nên giúp” nhiều hơn. Phe thiểu số bị nhóm Bắc Ninh đe dọa, trong số đó có Nhượng Tống, nên sau đó có mấy bạn Trần Vỹ, Lưu Văn Phùng, Vũ Hiển,… rút lui không tới NĐTX nữa.
Công tác ủng hộ nhóm Bắc Ninh bắt đầu bằng một bài “HỊCH” được trao cho Nhượng Tống khởi thảo. Nhưng sau ít ngày thì được tin mưu toan cuộc khởi nghĩa bị bại lộ, khắp nơi trong hạt Bắc Ninh đã xảy ra nhiều vụ khám xét nhà và bắt người.
Sau ngày cuộc âm mưu nổi dậy của nhóm quân nhân Bắc Ninh bị bại lộ và Phạm Tuấn Tài bị cấp tốc đổi đi Tuyên Quang, nhóm Nam Đồng Thư Xã ở số 6 đường 96 bờ hồ Trúc Bạch, Hà Nội, chỉ còn lại vỏn vẹn hơn 10 người.
Vào khoảng cuối tháng 10 năm 1927, Nguyễn Thái Học triệu tập một phiên họp, và đưa ra ý định thành lập một đảng bí mật, dùng võ lực lật đổ chế độ Thực dân Phong kiến, lập nên một chính thể Cộng Hòa, nhằm đem lại độc lập tự do cho Tổ Quốc, hạnh phúc tiến bộ cho toàn dân. Ý kiến này được mọi người tán thành và để tranh thủ thời gian, những người hiện diện liền tự động kết hợp lại thành một tổ chức, tạm gọi là “Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã” do Nguyễn Thái Học làm Chi Bộ Trưởng, và các ủy viên gồm có: Hồ Văn Mịch, Lê Văn Phúc, Hoàng Văn Tùng, Phó Đức Chính, Hoàng Phạm Trân tức Nhượng Tống, Vũ Huy Chân, Nguyễn Hữu Đạt, Lê Thành Vị Nguyễn Thái Trác, Phạm Tuấn Tài và Phạm Quang Vân. Số người này liền chia tay nhau, mỗi người đi một nơi, liên lạc với những người yêu nước lẻ tẻ, như nhóm Nguyễn Thế Nghiệp ở Bắc Ninh, Hoàng Văn Đào ở Thanh Hóa, Đoàn Mạnh Chế, Hàn Kều ở Hưng Yên, Nguyễn Khắc Nhu tức Xứ Nhu ở Phủ Lạng Thương, Đặng Đình Điển tức Hào Điển ở Thái Bình, v.v…
Trong thời gian không đầy một tháng, đã thành lập tất cả là 18 chi bộ, rải rác trên 14 tỉnh Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, với tổng số đảng viên trên 200 người. Thật là một kết quả vô cùng khả quan và đáng khích lệ cho tất cả mọi người.
Ít lâu sau, Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã lại được tăng cường với Nguyễn Ngọc Sơn (vừa ở Pháp về), Nguyễn Thế Nghiệp và Đỗ Văn Sinh; rồi sau lại có thêm: Nghiêm Toản, Nguyễn Văn Viên, Hoàng Cân, Lưu Văn Huệ.
Đại Hội thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng 25/12/1927
Đầu tháng 12 năm 1927, trong một phiên họp tổng kết các thành quả đã thâu lượm được, Nguyễn Thái Học đưa ra đề nghị triệu tập một Đại Hội Đại Biểu toàn thể các tỉnh để hợp thức hóa việc thành lập đảng. Đề nghị được mọi người hoan nghênh và chấp thuận ngay. Sau một hồi trao đổi ý kiến, toàn thể lại đồng thanh quyết nghị một chương trình tổ chức sau:
– Ngày giờ khai hội: Đúng 20 giờ ngày 25 tháng 12 năm 1927.
– Địa điểm hội trường: Làng Thể Giao thuộc thành phố Hà Nội (tại nhà đồng chí Lê Thành Vị).
– Thành phần tham dự:
Các địa phương: Mỗi tỉnh từ 1 đến 2 Đại Biểu, tùy theo số Đảng Viên nhiều hay ít.
Tại Trung ương: Tất cả các đồng chí Chi bộ NĐTX với danh nghĩa ban tổ chức Đại Hội.
Đồng thời một ủy ban trù bị và tổ chức Đại Hội cũng được thành lập với thành phần như sau:
– Chủ Tịch: Nguyễn Thái Học.
– Tiểu ban dự thảo chương trình và điều lệ: Hoàng Văn Tùng, Nguyễn Ngọc Sơn, Nhượng Tống.
– Tiểu ban hội trường và đón tiếp: Lê Thành Vị, Nguyễn Thái Trác.
– Tiểu ban an ninh trật tự: Nguyễn Hữu Đạt, Đỗ Văn Sinh.
Ngoài ra, các anh em khác như Nguyễn Thế Nghiệp, Vũ Huy Chân, Phạm Quang Vân,… cũng được phân phối mỗi người một công tác, hoặc phụ tá cho một tiểu ban.
Qua ngày hôm sau, mọi người đều đi lo phổ biến những quyết định trên các địa phương do mình liên lạc và tổ chức để họ kịp thời cắt cử đại diện về tham dự Đại Hội. Đồng thời các tiểu ban cũng tích cực hoạt động và chuẩn bị sẵn sàng.
Thời gian này, tất cả những tổn phí về di chuyển tàu, xe và chi tiêu mọi khoản, đều do tiền túi của anh em tự xuất ra cả, kẻ có đóng cho người không, kẻ thừa đưa đỡ cho người thiếu. Cái cảnh túng quẫn thiếu hụt vẫn thường xuyên ám ảnh, bởi lẽ đa số anh em đều là thanh niên, sinh viên, học sinh, ngoại trừ vài ba người là công tư chức, giáo viên. Tuy nhiên lúc nào anh em cũng vui đùa cười rỡn, coi nhau như máu mủ, thương yêu nhau như ruột thịt, có thì cùng ăn hết cùng nhau nhịn.
Ngày 24 tháng 12 năm 1927, các Đại Biểu các tỉnh đã tề tựu đông đủ tại Hà Nội, riêng khiếm diện Phạm Tuấn Tài. Hầu hết các Đại Biểu đều có phương tiện tự trú và tự túc.
Qua ngày 25, tối đến nhân lúc lễ Giáng Sinh đường xá đông đúc, các nhà thờ Công Giáo chuẩn bị đi lễ đêm, các Đại Biểu tiếp tục đến hội trường tại nhà đồng chí Lê Thành Vỵ. Hội trường là căn nhà ngang ở góc trái, lát gạch, lợp lá, tường xây, rộng chừng 4 mét, dài hơn 10 mét, trang trí thật là tôn nghiêm. Trên tường căng biểu ngữ dài với những dòng chữ “NHIỆT LIỆT CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ I VÀ NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG 25/12/1927.”
Hội trường được các đồng chí cắt đặt nhau canh gác rất cẩn mật.
Đúng 20 giờ ngày 25/12/1927, Đại Hội Đảng khai mạc với sự hiện diện của 36 Đại Biểu đại diện cho 14 tỉnh Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Giang, Kiến An, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, và Thanh Hóa.
Chương trình nghị sự gồm có các mục:
1. Phần khai mạc:
a) Đại diện ban tổ chức chào mừng các vị Đại Biểu và tuyên bố lý do.
b) Giới thiệu ban tổ chức, giới thiệu các vị Đại Biểu các tỉnh.
c) Bầu vị chủ tọa phiên họp.
2. Phần thảo luận:
a) Biểu quyết thông qua Danh Xưng, Mục Đích, Tôn Chỉ và Điều Lệ Đảng.
b) Bầu cử Tổng Bộ Lâm Thời nhiệm kỳ I.
c) Thông qua chương trình hành động tổng quát.
d) Các vấn đề linh tinh.
3. Phần bế mạc:
a) Lễ tuyên thệ của Tổng Bộ đắc cử.
b) Bàn giao quyền hành Chi Bộ NĐTX trước quyền nhiệm.
c) Giải tán.
Mở đầu, Nguyễn Thái Học nhân danh ban tổ chức, đứng lên trịnh trọng nói mấy lời chào mừng Đại Hội, ca tụng tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của các Đại Biểu, đã không quản nguy hiểm gian lao, hăng say về tham dự Đại Hội một cách đông đảo và nồng nhiệt. Tiếp, nói đến lý do và mục đích của phiên họp, sự cần thiết phải thành lập gấp một đảng cách mạng bí mật, theo chủ trương thiết huyết, dùng võ lực lật đổ chánh quyền thống trị thực dân Pháp và phong kiến lạc hậu, lập lên một chế độ Cộng Hòa, mang lại độc lập vinh quang cho Tổ Quốc, và tự do hạnh phúc cho toàn dân.
Qua phần giới thiệu, Nguyễn Thái Học trình diện với Đại Hội từng nhân viên trong ban tổ chức đồng thời cũng là Chi Bộ NĐTX, rồi lần lượt đến những vị Đại Biểu của mỗi tỉnh, cùng những thành quả đã thâu lượm được ở mỗi địa phương.
Để bầu Chủ Tịch Hội Nghị, Nguyễn Thái Học yêu cầu Đại Hội đề cử một vị cao niên trong hàng ngũ Đại Biểu các tỉnh, để phiên họp được thêm phần long trọng, và sự phân công cũng công bằng và hợp lý hơn. Tuy nhiên các vị Đại Biểu này, có vị đã gần 70 tuổi như cụ Đặng Đình Điển ở Thái Bình, vẫn nhất quyết từ chối, viện lẽ rằng các đồng chí đã nói là ban tổ chức, lại đã quen công việc, nên xin nhường để mấy anh em đề cử người điều khiển cho phiên nhóm được dễ dàng và mau lẹ hơn. Rút cuộc Nguyễn Ngọc Sơn được bầu làm Chủ Tọa, Nguyễn Hữu Đạt và Đỗ Văn Sinh giữ trật tự. Là đảng cách mạng bí mật, nên vấn đề thủ tục và pháp lý không mấy cần thiết lắm cần phải được giản dị hóa tới mức tối đa, do đó việc bầu thư ký được bỏ qua.
Bước sang phần thảo luận, vấn đề lập Đảng và danh xưng được đề cập đến trước hết. Toàn thể hội nghị đã chấp thuận và thông qua một cách nhanh chóng: Thành lập một đảng cách mạng với danh xưng là “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG”, viết tắt là “VNQDĐ”.
Đến mục đích và tôn chỉ, cuộc thảo luận trở nên sôi nổi, nhiều ý kiến khác nhau được nêu lên, vì trong bản dự thảo điều lệ cũng ở khoản này, lại có đoạn ghi: Mục đích và tôn chỉ của Đảng là làm cách mạng quốc gia và cách mạng thế giới. Bốn chữ “cách mạng thế giới” đã gây hoang mang cho các hội thảo viên, có người cho rằng thế là thiên tả. Có người cho rằng như thế sẽ trở thành Cộng Sản và đòi phải xóa bỏ hoặc sửa lại. Tuy nhiên sau ít phút thảo luận, Hội nghị đã đồng ý quyết định sửa đổi lại đoạn này như sau:
“Mục đích và Tôn chỉ của Đảng là làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc Lập Cộng Hòa. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong công cuộc tranh đấu giành độc lập của họ đặc biệt là các lân quốc: Ai Lao, Cao Miên.”
Sang phần còn lại, từ hệ thống tổ chức, điều kiện gia nhập, đến nghĩa vụ Đảng viên, v.v… Toàn văn bản dự thảo đã được hội nghị biểu quyết thông qua, sau khi sửa đổi một vài chi tiết không mấy quan trọng.
Chiếu bản điều lệ này, Đảng được tổ chức theo hệ thống dọc, hạ tầng cơ sở là Chi bộ, rồi đến Tỉnh bộ, Kỳ Bộ và thượng tầng cơ sở là Tổng Bộ. Số đảng viên tối đa là 19 người. Vì theo luật lệ hiện hành, bất cứ cuộc họp hành nào có 20 người trở lên, đều phải xin phép trước với nhà cầm quyền. Mỗi Chi bộ được bầu ra một Chi bộ trưởng, một ủy viên đại diện lên Tỉnh bộ và 4 trưởng ban: Tổ Chức, Tuyên Truyền, Tài Chính và Trinh Thám, hợp lại thành ban chấp hành Chi bộ và cứ 6 tháng bầu lại một lần.
Tỉnh bộ lập thành bởi các Đại Biểu các Chi bộ cử lên, cũng gồm 19 người, có một Tỉnh bộ trưởng, một ủy viên đại diện lên Kỳ Bộ và 4 trưởng ủy ban như Chi bộ.
Trên Tỉnh bộ là Kỳ Bộ, nguyên tắc tổ chức cũng vậy, và mỗi Kỳ Bộ được cử một số ủy viên đại diện lên, để hợp thành Tổng Bộ.
Tổng Bộ là cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng, có một vị Chủ Tịch Đảng, một phó Chủ Tịch và 8 trưởng Ủy Ban: Tổ Chức, Tuyên Truyền, Tài Chánh, Trinh Thám, Ngoại Giao, Binh Vụ, Giám Sát và Ám Sát. Tổng Bộ cũng 6 tháng bầu lại một lần và gồm tối đa là 19 thành viên.
Cách tổ chức này hoàn toàn theo nguyên tắc đại nghị, cực kỳ dân chủ và đúng với câu “tuyển chọn rồi phục tòng” (élire et obéir).
Đến điều kiện muốn gia nhập Đảng, phải có 2 đảng viên cũ giới thiệu và bảo lãnh, phải qua sự điều tra trước của ủy ban Trinh Thám (ít nhất là nửa tháng), phải được toàn thể ban chấp hành Chi bộ ưng thuận; và sau chót, phải làm lễ tuyên thệ trước bàn thờ Tổ Quốc trong một phiên họp khoáng đại Chi bộ, có sự giám sát của nhân viên Tỉnh bộ.
Còn nghĩa vụ của bất cứ người Đảng viên nào, thì cũng phải là hy sinh tất cả cho Đảng, cho Quốc Gia Dân Tộc, kể cả xương máu.
Sau khi thông qua bản điều lệ, thì sắp đến 23 giờ, Hội nghị bắt đầu nghỉ giải lao, thì anh Phạm Tuấn Tài đến.
23 giờ 15 phút, hội nghị tái nhóm, thảo luận sang vấn đề bầu cử Tổng Bộ Lâm Thời.
Về vấn đề này, các Đại Biểu các tỉnh nêu lên hai ý kiến:
1) Một số Đại Biểu cho rằng từ trước đến nay, nhóm anh em NĐTX tuy chỉ khiêm tốn xưng danh là một Chi bộ nhưng trong thực tế, chính là một ban sáng lập, hành xử như một cơ quan lãnh đạo lâm thời, kiêm nhiệm hết thảy mọi công tác về vận động và tổ chức. Do đó, giờ đây các vị này đề nghị Đại Hội chính thức biểu quyết tín nhiệm đề cử toàn thể Chi bộ NĐTX vào chức vụ Tổng Bộ Lâm Thời nhiệm kỳ đầu tiên này, hầu tránh mọi sự xáo trộn và bỡ ngỡ có thể xảy ra với những thành phần mới lạ; đồng thời cũng để ghi công với những người đã tích cực góp sức vào sự nghiệp dựng nên Đảng.
2) Một số Đại Biểu khác lại quan niệm rằng, việc chính thức bầu ra một Tổng Bộ Lâm Thời lúc này là cần thiết và bắt buộc, theo đúng trong bản Điều lệ vừa được Đại Hội biểu quyết và thông qua; hơn nữa để có thêm uy tín và rộng quyền hành động trong tương lai. Cơ quan này phải có tính cách công cử cùng sự đại diện rộng rãi của các địa phương. Đề cập đến Chi bộ NĐTX các vị này cho rằng đây không những chỉ có vấn đề ghi công, mà còn cần để đánh dấu và lưu niệm mãi mãi một cơ quan hạ tầng căn bản đầu tiên đã phát nguyên ra đảng. Do đó Hội nghị phải suy tôn bằng một vinh dự gì xứng đáng hơn, vĩnh cửu hơn việc chỉ đề cử chức vụ “Tổng Bộ Lâm Thời” trong một thời gian hữu hạn và ngắn ngủi.
Ý kiến này được hầu hết các Đại Biểu tán thành, và sau khi thảo luận qua loa, hội nghị đồng thanh quyết định như sau:
1) Suy tôn Chi Bộ “NAM ĐỒNG THƯ XÔ là “ĐỆ NHẤT CHI BỘ”.
2) Bầu “TỔNG BỘ LÂM THỜI” theo đúng những nguyên tắc trong bản điều lệ vừa được thông qua.
Đến đây, Nguyễn Thái Học thay mặt cho Chi bộ NĐTX đứng lên nhận lãnh vinh hiệu “ĐỆ NHẤT CHI BỘ” và tỏ lời cám ơn toàn thể Đại Hội.
Vừa dứt lời, thì có tin báo động từ phía nhà đồng chí Nguyễn Thái Trác ở phố chợ Đuổi đưa vào. Phiên họp lập tức được tuyên bố tạm ngưng. Các Đại Biểu bình tĩnh theo các hướng dẫn viên rút lui qua đường nhà thương đau mắt, tản mác và mang theo tất cả những tài liệu quan trọng. Hội trường cũng được cấp tốc thu dọn, và không để lại một vết tích gì khả nghi nữa.
Đúng 2 giờ 30 phút, hội nghị tái nhóm tại căn lầu NĐTX, Nguyễn Hữu Đạt yêu cầu đừng ai ghi chép gì cả, và cũng đừng giữ trong mình giấy tờ gì có liên quan đến cuộc họp.
Hội nghị bắt đầu bằng việc bầu cử Tổng Bộ Lâm Thời. Tuy gọi là bầu, nhưng thực ra thì chẳng có một ai dám ứng cử hay tranh cử cả mà chỉ là một cuộc đề cử khiêm tốn, nhường đi nhường lại hồi lâu, rồi mới đưa đến được kết quả:
Chủ Tịch: Nguyễn Thái Học
Phó Chủ Tịch: Nguyễn Thế Nghiệp
Ủy Ban Tổ Chức: Phó Đức Chính (trưởng ban) – Lê Văn Phúc (phó ban)
Ủy Ban Tuyên Truyền: Nhượng Tống (trưởng ban)
Ủy Ban Ngoại Giao: Nguyễn Ngọc Sơn, Hồ Văn Mịch
Ủy Ban Tài Chính: Đặng Đình Điển, Đoàn Mạnh Chế
Ủy Ban Giám Sát: Nguyễn Hữu Đạt, Hoàng Trác
Ủy Ban Trinh Sát: Trương Dân Bảo, Phạm Tiềm
Ủy Ban Ám Sát: Hoàng Văn Tùng
Ủy Ban Binh Vụ: (tạm thời chưa có)
Để kết thúc phần thảo luận, Đại Hội cũng đã biểu quyết chấp thuận trên nguyên tắc một chương trình cách mạng tổng quát, phân làm hai giai đoạn: “phá hoại” (đánh địch) và “kiến thiết”.
A. GIAI ĐOẠN PHÁ HOẠI ĐƯỢC CHIA LÀM 3 THỜI KỲ:
1) Thời kỳ phôi thai: Xây dựng Đảng và thu nạp Đảng Viên (hoạt động hoàn toàn bí mật).
2) Thời kỳ dự bị: Phát triển tuyên truyền, tổ chức quần chúng: Lập các nông, công đoàn, binh đoàn, học sinh, sinh viên, thanh niên đoàn… (hoạt động bán bí mật, bán công khai).
3) Thời kỳ hành động: Dùng võ lực đánh đổ bộ máy thống trị thực dân phong kiến, lập nên chế độ Cộng Hòa Dân Chủ, nhằm mang lại độc lập, tự do cho Tổ Quốc, hạnh phúc, tiến bộ cho toàn dân.
B. GIAI ĐOẠN KIẾN THIẾT CŨNG CHIA LÀM 3 THỜI KỲ:
1) Thời kỳ quân chính: Quân cách mạng chiếm được ở đâu là lập ngay chính quyền cách mạng quân sự đến đó.
2) Thời kỳ huấn chính: Tổ chức các cơ cấu dân cử, trực tiếp hoặc gián tiếp tập cho dân sống quen với nếp sống dân chủ về các thể chế mới, v.v… Trong hai thời kỳ này áp dụng nguyên tắc “Dĩ Đảng trị quốc”.
3) Thời kỳ hiến chính: Tổ chức phổ thông đầu phiếu bầu cử Quốc Dân Đại Hội, xây dựng Hiến pháp và trao trả chính quyền lại cho toàn dân.
Đã hơn năm giờ sáng, hội nghị chuyển sang phần bế mạc bằng lễ tuyên thệ của Tổng Bộ mới. Tuy trong bản điều lệ không thấy nói đến, nhưng theo thông lệ lúc bấy giờ, thì mặc dầu đã tuyên thệ ở Chi bộ rồi, bất luận một đồng chí nào khi được đề cử lên một cấp bộ cao hơn, đều phải tuyên thệ một lần nữa trước cơ quan mới này.
Lần lượt 16 đồng chí, già từ sáu, bảy mươi tuổi đến trẻ hai, ba mươi tuổi, nghiêm trang tuyên thệ trước bàn thờ Tổ Quốc, nguyện:
“Quyết tâm làm tròn sứ mạng đã được trao phó, hăng say đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công mỹ mãn. Tuyệt đối hy sinh tất cả cho tổ quốc dân tộc và cho đảng,… Nếu sai lời xin chịu tội tử hình”.
Và sau đó là lễ chuyển giao quyền hành từ “Đệ Nhất Chi Bộ” cho “Tổng Bộ Lâm Thời” tân cử, do Đỗ Văn Sinh niên trưởng Chi bộ chủ tọa, thay cho Nguyễn Thái Học đã làm Chủ Tịch Đảng.
Lúc này trời đã rạng đông, và Đại Hội Đại Biểu Đảng lần thứ nhất tuyên bố bế mạc sau một đêm ròng thảo luận, suy tư trong một khung cảnh tuy sơ sài giản dị, nhưng mang một ý nghĩa thiêng liêng và trọng đại trước lịch sử, trước hồn thiên sông núi.
Thế là “VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG” đã Đảng Sinh cùng ngày với vị Giáo Chủ Thiên Chúa Giáo, cũng như vị Giáo Chủ ấy, người lãnh tụ của VNQDĐ đã đem mạng sống để hy sinh cho lý tưởng của mình (Theo lời Nhượng Tống nói hồi năm 1947).
Admin: https://www.vietquoc.org
https://vietquoc.org/chao-m%e1%bb%abng-d%e1%ba%a3n-sinh-vi%e1%bb%87t-nam-qu%e1%bb%91c-dan-d%e1%ba%a3ng-l%e1%ba%a7n-th%e1%bb%a9-85/#more-8485
Những lá thư trong tù gửi Thực dân Pháp của Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học (1)
Published 23/12/2022
Nhân kỷ niệm thành lập VNQDĐ lần thứ 95, trang nhà VNQDĐ đăng thư của đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học gửi Nghị Viện Pháp khi trong nhà lao Hỏa Lò, Hà Nội sau cuộc Tổng Khởi Nghĩa ngày 10/02/1930 bị thất bại.
Nguyễn Thái Học – Đảng Trưởng VNQDĐ trong nhà lao Hỏa Lò Hà Nội (1930) – bên phải lời tuyên bố của ông
Thư của Nguyễn Thái Học viết cho Hạ Viện Pháp
Các ông Nghị Viện!
Tôi ký tên dưới đây là Nguyễn Thái Học, người Việt Nam, 26 tuổi, chủ tịch và sáng lập viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng, hiện bị bắt và giam ở ngục Yên Báy, Bắc kỳ, Đông Dương, trân trọng bày tỏ như sau này:
Theo công lý, ai cũng có quyền bênh vực tổ quốc mình khi bị các nước khác xâm lược, và theo nhân đạo, ai cũng có nghĩa vụ phải cứu vãn đồng bào trong vòng nguy hiểm, khó khăn. Như tôi, tôi thấy rằng tổ quốc tôi bị người Pháp các ông chiếm lĩnh hơn sáu mươi năm nay; tôi thấy rằng, dưới ách chuyên chế của các ông, đồng bào tôi khốn khổ vô cùng, và dân tộc tôi dần dần sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn, theo luật tự nhiên đào thải. Bởi vậy, quyền lợi và nghĩa vụ đã thúc giục tôi phải tìm hết cách để bênh vực tổ quốc tôi đương bị người chiếm lĩnh, và dân tộc đương ở cảnh gian nguy. Trước hết, tôi định cùng với các người Pháp ở Đông Dương mà làm việc mở mang trí thức và kinh tế. Về phương diện kinh tế, năm 1925, tôi đã gởi cho viên Toàn Quyền Va-ren một bức thư, gồm có những nguyện vọng xin bênh vực che chở nền công, thương bản xứ, và nhất là lập một trường Cao Đẳng Công Nghệ ở Bắc kỳ. Năm 1926, tôi lại gởi một bức thư nữa cho viên Toàn Quyền Đông Dương, trong có một dự án giúp cho dân nghèo có thể dễ sống. Năm 1927, tôi lại gửi cho Thống Sứ Bắc kỳ một bức thư, xin ra một tập tuần báo, mục đích là bênh vực và khuyến khích cho nền công, thương bản xứ. Về phương diện trí thức, năm 1925, tôi gửi thư cho Toàn Quyền Đông Dương, yêu cầu:
Quyền tự do mở các trường không lấy tiền cho dân hạ giới đến học, nhất là cho thợ thuyền và nông dân!
Quyền tự do mở các bình dân thư xã ở các làng cùng ở các tỉnh công nghệ.
Khốn nỗi cái gì cũng bị họ cự tuyệt! Thư tôi chẳng thấy trả lời; dự án của tôi chẳng thấy thực hiện; các lời yêu cầu của tôi chẳng thấy ưng chuẩn, mà đến các bài tôi viết lên báo cũng bị kiểm duyệt, xóa bỏ nốt! Cứ những chuyện cự tuyệt đó, tôi thấy rõ ràng rằng: người Pháp không hề có thực lòng với người Việt, và tôi chẳng giúp ích gì được tổ quốc tôi, đồng bào tôi, dân tộc tôi cả, trừ khi là đuổi người Pháp ra khỏi đất nước tôi! Bởi vậy, năm 1927, tôi bắt đầu tổ chức một đảng cách mệnh, lấy tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng, mục đích là đánh đổ cường quyền áp bức ra khỏi nước tôi, và lập nên chính phủ Cộng Hòa Việt Nam, gồm những người thực lòng tha thiết đến hạnh phúc của quần chúng.
Đảng tôi tổ chức bí mật, và đến tháng 2 năm 1929 thì bọn mật thám khám phá. Trong các đảng viên đảng tôi, bị bắt một số khá lớn, và bị xử cấm cố từ 2 năm đến 20 năm, tất cả 52 người. Bị bắt nhiều, bị xử oan ức… Đảng tôi đâu có chịu hoàn toàn tiêu diệt! Dưới quyền tôi chỉ huy, Đảng vẫn hoạt động và đi tới mục đích. Ở Bắc kỳ nổi lên một phong trào cách mệnh; nhất là ở Yên Báy, đã giết chết được mấy sĩ quan. Tổ chức và cầm đầu cho phong trào đó, người ta buộc cho Đảng tôi, lấy cớ rằng chính tôi là chủ tịch của Đảng đã hạ lệnh đánh. Kỳ thực thì tôi chưa hề hạ lệnh ấy, và đã đem những chứng cớ đích xác, để chứng rõ ràng không, với Hội Đồng Đề Hình Yên Báy. Vậy mà, một số đông đảng viên hoàn toàn không biết đến phong trào ấy cũng bị bắt và bị buộc là có tham dự vào công việc! Chính phủ Đông pháp đã đốt, phá nhà họ! Chính phủ Đông pháp đã cho lính đến đóng, rồi tịch thu gạo thóc của họ mà chia phần với nhau! Chẳng những đảng viên đảng tôi, phải cam chịu nỗi bất bình – mà gọi là tàn bạo tưởng đúng hơn! – mà còn phần đông đồng bào, hiền lành làm lụng ở nhà quê, để sống cái đời ngựa trâu, cũng chịu hại lây nữa!
Hiện nay trong các miền Kiến An, Hải Phòng, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Báy, có hàng vạn người đàn ông, đàn bà, con trẻ vô tội mà bị giết! Hoặc bị chết đói, chết rét vì chính phủ Đông Pháp đã đốt mất nhà! Vậy tôi trân trọng lấy nước mắt, nhờ các ông làm cho tỏ rõ nỗi bất bình ấy, là cái nó làm cho dân tộc tôi sẽ hoàn toàn tiêu diệt, là cái nó làm cho mất hết danh dự nước Pháp, là cái nó làm cho giảm cả giá trị của loài người!
Sau nữa, tôi trân trọng bảo cho các ông biết: tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc chính biến phát sinh trong nước tôi và chỉ huy bởi Đảng tôi, từ năm 1927 đến giờ! Vậy chỉ cần giết một mình tôi là đủ, mà đừng làm tội những người khác hiện nay đương bị giam ở các cửa ngục. Vì chỉ có mình tôi là thủ phạm thôi, còn những người khác đều vô tội cả! Họ vô tội, vì trong số đó thì một phần là những đảng viên, nhưng sỡ dĩ vào Đảng là vì họ nghe lời tôi khuyến khích cho họ biết: thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với Nước; thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên vong quốc nô! Còn ngoài ra thì là những người không phải đảng viên, nhưng bị kẻ thù hay bọn mật thám đặt điều vu cáo, hay lại bị vu cáo bởi những bạn hữu không chịu nổi những cách tra tấn tàn nhẫn của Công an cục (Sở Mật thám), và khai bừa ra cho đỡ phải đòn! Tôi nhắc lại một lần nữa để các ông biết rằng chỉ cần phải giết một mình tôi hay còn chưa đủ hả thì tru di cả nhà tôi, nhưng xin các ông tha cho những người vô tội như trên đã nói.
Sau cùng, tôi kết luận bức thư này mà nói cho các ông biết rằng: Nếu người Pháp muốn ở yên ở Đông Dương mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mệnh thì phải thay đổi cái chương trình chính trị hung tàn và vô đạo hiện hành ở Đông Dương: phải cư xử cho ra vẻ những người bạn của giống Việt Nam chứ đừng có lên bộ là những ông chủ bạo ngược và áp chế; phải để lòng giúp đỡ cho những nỗi khổ đau về tinh thần, về vật chất của người Việt Nam, chứ đừng có khắc khe, thâm độc nữa!
Các ông Nghị!
Hãy nhận lấy tấm lòng tôi trân trọng cám ơn.
Nguyễn Thái Học
https://vietquoc.org/ky-niem-ngay-thanh-lap-vnqdd-lan-thu-93-1/#more-34024
Nhân kỷ niệm thành lập VNQDĐ lần thứ 95, trang nhà VNQDĐ đăng bài báo Tri Tân phỏng vấn Nhượng Tống về thành lập VNQDĐ vào ngày 10 tháng 5 năm 1945.
Cuộc phỏng vấn của báo Tri-Tân đề tài:
Ông Nhượng Tống với Việt Nam Quốc Dân Đảng
Ngày 10/05/1945
Phỏng vấn Nhượng Tống 5/1945 trên báo Tri Tân về Việt Nam Quốc Dân Đảng
Tháng Chín năm ngoái, khi làm được cho cuốn tiểu thuyết Lan Hữu quay trở lại, tôi đã biết kể từ đó sẽ phải thực hiện nhiều tìm kiếm vào các ngóc ngách, để thực sự biết về Nhượng Tống, và các tìm kiếm mỗi lúc sẽ một khó khăn hơn, các đầu mối ngày một trở nên nhỏ bé hơn.
Điều tôi chưa bao giờ nghĩ đến là Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân từng trả lời phỏng vấn công khai trên báo. Dưới đây là bài phỏng vấn trên tờ Tri Tân, số 185-186, ngày 10 tháng 5 năm 1945, do Phạm Mạnh Phan thực hiện. Số kép Tri Tân này thuộc hệ “đặc san”, được đặt tên là “Việt Nam Giải Phóng”. Chúng ta cũng biết, đây là thời điểm lịch sử có tên gọi Đế Quốc Việt Nam. Một tháng sau đó, Nhượng Tống sẽ cho in cuốn sách về Nguyễn Thái Học.
Tờ Tri Tân là một tờ không lạ, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ có thể tìm được dấu vết Nhượng Tống ở đây. Rất cảm ơn người bạn đã chỉ cho tôi thông tin này.
Cuộc phỏng vấn của Tri-Tân (phần chữ đậm-chữ đỏ là báo Tri tân và phần chữ nghiêng là trả lời của Nhượng Tống)
Việc tước khí giới quân đội Pháp đêm mồng 9 tháng 3 dương lịch 1945 đã đem lại nền độc lập cho nước nhà. Trong khi quốc gia được giải phóng, các đảng chính trị đã thấy công nhiên xuất đầu lộ diện để làm việc cho tổ quốc. Nhiều người nhắc nhở đến Việt Nam Quốc Dân Đảng, một đảng chính trị đã gây nên bao vụ đổ máu ghê hồn để chống lại với kẻ thù chung.
Muốn biết về Việt Nam Quốc Dân Đảng, không gì bằng hỏi ngay một yếu nhân của đảng đó, ông Nhượng Tống, người đã trung thành với đảng ngay từ lúc khai sơ.
***
Tôi đã gặp ông ngay tại nhà trọ ở phố Cửa Nam, ông là một cựu chính trị phạm và trước kia là một biên tập viên đắc lực của Thực Nghiệp dân báo. Trong làng bút mực, cái tên ông không phải xa lạ. Ông bận nam phục và có vẻ nho nhã. Với những cử chỉ ôn tồn, ông đã tiếp tôi trên một căn gác vắng vẻ.
Bước chân vào phòng, tôi như có cảm tưởng đã lạc lõng vào một nơi đầy những sự bí mật và quan trọng!
Tôi nhẹ nhàng vào chuyện:
– Chúng tôi mong ông cho biết qua về lịch sử Việt Nam Quốc Dân Đảng mà nhiều người đang mong đợi.
Ngồi xếp chân vòng chòn (tròn) trên chiếc ghế bành kiểu mới, và nhìn thẳng vào tôi, ông bắt đầu phá một mối ngờ về lai lịch của đảng:
– Nhiều người ngỏ [ngỡ?] rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng lập nên do các anh em ở ngoài như Nguyễn Hải Thần, tức Tú Nhạc ở Quảng Châu bên Tầu. Ông Hải Thần quê ở Đại-từ và là giáo sư trường Hoàng-phố. Ông có lập một đảng cách mệnh, nhưng không dính líu gì đến Việt Nam Quốc Dân Đảng của chúng tôi lập ngay tại trong nước nhà vào hồi năm 1926-1927.
Tôi ngắt lời ông để tìm tới nguồn gốc của đảng: – Vậy, vì một nguyên nhân gì mà ông và các bạn đồng chí lập nên Việt Nam Quốc Dân Đảng?
– Dạo đó tôi còn nhớ đâu vào năm 1925 thì phải, sau hồi viên toàn quyền Merlin bị ném bom ở cạnh Quảng-châu, anh Nguyễn thái Học và tôi thấy ở Đông dương, người Pháp chỉ thi hành chánh sách giả dối và lừa lọc. Mặc dầu viên toàn quyền mới Varenne thuộc đảng xã hội xướng lên cái thuyết Pháp Việt đề huề, nhưng chúng tôi thấy chỉ là câu chuyện lường gạt và che đậy sự vờ vịt của họ. Dưới ách viên toàn quyền mới, dân Việt nam chúng ta lại càng bị trói buộc hơn bằng những đạo luật thắt cổ như luật về báo chí chẳng hạn!
Toàn dân lấy làm thất vọng. Và thái độ người Pháp dạo đó giống hệt như câu tôi đã viết trong cuốn Cách mệnh tiên thanh: “Tay phải giơ ra đề huề, nhưng tay trái luồn xuống để lần lưng móc túi”!
– Cuốn sách đó ông có cho xuất bản?
Ông Nhượng Tống cười và đáp:
– Những sách như thế dạo còn họ cai trị thì xuất bản làm sao được. Cuốn đó tôi đem in “lậu” để phân phát cho các đồng chí.
Ngừng một vài giây như để ôn lại những bước đường đầu trong đời chính trị, ông nói luôn một mạch:
– Tôi nghĩ họ không thật tâm khai hóa cho mình thì cộng tác với đề huề làm sao được. Tôi quyết tranh đấu, tranh đấu đến cùng. Tôi vốn là một người đầu óc ưa hòa bình nên nghĩ ngay đến hòa bình cách mệnh.
Một mặt tôi cùng Phạm tuấn Tài, Phạm tuấn Lâm tức Dật-công, là hai bạn thân, lập nên Nam Đồng Thư Xã để cho xuất bản các sách có tính cách tuyên truyền, cổ động tinh thần ái quốc và giúp đỡ đồng bào trong việc công dân giáo dục.
Một mặt, tôi cổ động các thợ thuyền, các công chức lập lên những hội tiết kiệm và hợp tác xã để dự bị một cuộc tổng bãi công. Tôi tin rằng nếu thi hành điều dự định của tôi thì món tiền các thợ thuyền cùng các công chức tiết kiệm trong sáu năm sẽ đủ nuôi họ và gia đình họ để đồng lòng bãi công trong sáu tháng! Sau sáu tháng thì trong công việc hành-chính và các ngành công thương đều hỗn loạn.
Trong khi ấy và chỉ khi ấy chúng tôi sẽ cổ động đến quân lính sự bất tuân thượng lệnh! Nhờ sức ủng hộ của binh công, chúng tôi mong sẽ làm xong cuộc quốc gia cách mệnh.
Tôi đã bắt đầu hồi đó thi hành điều tôi ước mong vì đó chính là lối cách mệnh hòa bình.
Nhưng khi gặp anh Nguyễn thái Học, anh Hồ văn Mịch thì các anh cho cái chương trình của tôi hoàn toàn thuộc không tưởng (utopie) không thể thực hành được ở xứ mình. Anh Học nói:
– “Người Pháp đã đổ máu cướp tự do của ta, ta cũng phải đổ máu mà đòi lại! Muốn lấy lại nền độc lập cho đồng bào thì phải cần dùng đến võ lực để đánh đổ chủ quyền người Pháp, để đuổi họ ra khỏi đất nước này”.
– ………..
– Sau ba đêm bàn bạc với các đồng chí, điều đề nghị của anh Học được mọi người tán thành. Tôi năm đó kém anh Học ba tuổi, mới có 21, là người bé nhất. Lẽ cố nhiên tôi phải phục tòng đa số.
Từ khi đó chúng tôi mới liên lạc các anh em đồng chí ở khắp nơi mà bí mật hành động để lập nên Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Ở các nơi như Thanh-hóa, Bắc-ninh, Hưng-yên dạo đó đã có những đoàn thể cách mệnh, nhưng những đoàn ấy chưa có danh hiệu cùng chương trình hành động rõ ràng và duy nhất.
Chúng tôi gặp anh em rồi tất cả đều nhập vào đảng do chúng tôi tổ chức.
Cổ động trong ít lâu mà đảng viên của đảng đã rất đông. Theo các sách của người Pháp thì có tới vài nghìn người, nhưng đó là theo số người bị bắt vào năm 1929. Đúng ra thì đảng bấy giờ đã có trên hai vạn, và đến 1930 tất cả Bắc kỳ đảng viên đã lên tới trên 7 vạn người!
Ngạc nhiên về con số vĩ đại ấy, tôi liền bước sang câu hỏi chính: – Với một số đông đảng viên ấy, chắc cách tổ chức của đảng cũng… Tôi chưa nói hết lời thì người tôi phỏng vấn liền tiếp luôn:
– “Chúng tôi đã tổ chức đảng chia làm 4 bậc: trung ương đảng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ và chi bộ.
Trung ương có 8 ban: ban tài chính, ban tuyên truyền, ban tổ chức, ban binh bị, ban giám sát, ban trinh thám, ban giao thông và ban ám sát.
Dưới trung ương đảng bộ là kỳ bộ. Tất cả có 3 kỳ: Trung, Nam, Bắc.
Từ tỉnh bộ trở xuống chỉ có 4 ban, tuyên truyền, tổ chức, tài chính và giám sát.
Mỗi chi bộ có 19 đảng viên vì dạo đó có lệ cấm không được hội họp quá 19 người. Nói là 19 nhưng nhiều khi mỗi chi bộ không đủ con số đó. Mỗi khi họp ở đâu thì do ban tổ chức tìm nơi và quyết định rồi mệnh lệnh sẽ do các đảng viên truyền đi, đảng viên ấy ở trong bộ giao thông.
Trong trung ương đảng bộ, anh Nguyễn khắc Nhu tức Xứ Nhu làm chủ tịch, còn anh Nguyễn thái Học thì là phó chủ tịch.
Đến 1929 đảng chúng tôi chia làm hai ban: ban lập pháp và ban chấp hành. Ban lập pháp thì anh Xứ Nhu đứng đầu. Ban chấp hành thì anh Nguyễn thế Nghiệp.
Nghe xong một đoạn dài về cách tổ chức đảng, tôi tò mò muốn biết cách vào đảng, liền hỏi:
– Mỗi khi một người muốn vào đảng thì buộc phải có những điều kiện gì?
– Có! Muốn vào đảng thoạt tiên phải có 2 người trong đảng giới thiệu. Rồi đảng phái người đi điều tra trong một tháng. Việc điều tra ấy đảng ủy cho ban trinh thám. Khi vào đảng, phải giơ tay tuyên thệ trước mắt các đồng chí, đại khái: “Trước giang sơn tổ quốc, trước mặt các anh em đồng chí, tên tôi là…. bao nhiêu tuổi, thề xin giữ bí mật cho đảng, phục tòng mệnh lệnh của đảng, hy sinh tài sản, tính mệnh cho đảng. Nếu sai tôi xin chịu tử hình.”
– Đảng tổ chức như vậy chắc cũng có nguồn lợi-tức gì để chi tiêu các khoản?
– “Tiền của đảng một phần là do các đảng viên đóng, mỗi người mỗi tháng hai hào. Những người đi làm công sở mà có lương tháng thì phải góp hàng tháng hai mươi phần trăm số lương. Các nhà nông công, thương, phải nộp hàng năm hai mươi phần trăm số lợi tức. Ngoài ra đảng lại mở cuộc lạc quyên trong các đồng chí. Nhiều anh em đã giúp đảng hàng vạn!”
Biết rõ về cách tổ chức, tôi bèn hỏi tới chương trình của Việt Nam Quốc Dân Đảng thì ông Nhượng Tống liền đứng lên đi tản bộ trong phòng như có vẻ suy nghĩ. Rồi ông thư thả nói:
– Chương trình của đảng có 4 thời kỳ: phôi thai, dự bị, phá hoại tức cách mệnh với người Pháp và kiến thiết. Chúng tôi chưa làm xong cái chương trình ấy thì đã bị vỡ và bị người Pháp thẳng tay đàn áp. Chúng tôi mới tới thời kỳ thứ ba. Còn thời kỳ thứ tư là kiến thiết quốc gia theo chương trình khi ấy là lập nước Việt Nam ta thành một nước cộng hòa.
– Ông làm ơn cho biết Việt Nam Quốc Dân Đảng hành động khắp trong nước hay chỉ có nguyên ngoài Bắc?
– Chúng tôi định lập chi nhánh ở khắp Trung, Nam nhưng đồng chí ở hai nơi này không có mấy. Hồi đó Nam-kỳ phần nhiều theo Nguyễn an Ninh. Trung-kỳ thì theo Tân Việt cách mệnh đảng và Thanh Niên đồng chí hội. Chúng tôi có phái người đi liên lạc để mong hợp nhất không những ở trong nước mà còn cả các đảng cách mệnh ở Xiêm, ở Tàu. Nhưng điều mong ước đó không được thực hiện.
Tôi liền bước sang câu hỏi phụ để biết qua về văn chương cách mệnh: – Ngoài các sách của Nam Đồng Thư Xã, Việt Nam Quốc Dân Đảng có còn các bài văn nào trong thời kỳ tuyên truyền chăng?
– Khi Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập thì vừa là lúc Nam Đồng Thư Xã bị người Pháp bắt đóng cửa. Các sách đã xuất bản như Gương thiếu niên, Gương thành bại, Trưng Vương diễn nghĩa, Dân tộc chủ nghĩa, Dân sinh chủ nghĩa phần nhiều bị cấm và tan-nát cả.
Tôi hồi đó có làm cuốn Cách mệnh tiên thanh, trong đó kể người Pháp 32 tội! Sách in giấu không cho nhà đương cục biết.
– Nghe nói trong sách ấy có một bài cách mệnh ca, ông còn nhớ xin cho biết.
– Tôi chỉ còn nhớ có tám câu đầu là:
“Lửa đế quốc thiêu tàn sáu giống
“Sóng cường quyền vỗ động năm châu
“Nước đến chân, lửa đốt đầu
“Khói tanh sặc sụa hơi sầu mê man
“Giống mạnh những moi gan móc mắt
“Loài yếu cam sấp mặt cúi mày,
“Thảm nào quá thảm lúc này
“Nhục nào hơn nhục ngày rày nữa đâu!
và mấy câu cuối:
“Xin đứng dậy cùng lên tiếng hát
“Gọi hồn mê hét quát gió mây
“Nằm da uống máu có ngày
“Xông tên đột đạn phen này mới xong,
“Cùng dấn bước xin cùng dấn bước
“Gây binh đao gây cuộc binh đao
“Phất cờ đào, đổ máu đào,
“Nam đồng bào, nữ đồng bào tiến lên!”
Ngoài mấy câu đó tôi còn nhớ trong có một bài quốc ca:
“Một lời đồng tâm liều thân vì nước
“Góp chung máu đào quyết rửa thù chung
“Con đường quang vinh vui chân cùng bước
“Chết đáng chết trên trần thế mấy anh hùng?
“Chết đáng chết trên trần thế mấy anh hùng?
“Cùng loài sài lang, thề chẳng đội trời chung
“Sống ra không thẹn cùng non sông!
“Chết đi không hổ cùng cha ông
“Nào anh em đồng chí!
“Xin tiến lên cùng!
“Lắp súng, anh em tiền quân!
“Tuốt gươm, anh em tiền phong!
“Tuốt gươm, lắp súng,
“Tiến lên! Tiến lên! Ta phấn đấu tới cùng!
– Thế đảng đang bành trướng, chẳng hay vì lẽ chi lại bị vỡ?
– Đảng bị tiết lộ là vì có nội công.
– Có lẽ rồi sau đảng cũng rõ con người phản bội?
– Người ấy chính là Bùi tiến Mai ở Thái Bình. Trước hắn làm thừa phái và lại là đại biểu cho tỉnh bộ Thái bình để dự vào trung ương đảng bộ.
Hắn đi tố cáo với quân địch nên các đồng chí ở Thái bình và các đảng viên ở trung ương đảng bộ đều bị bắt, trừ chủ tịch Nguyễn khắc Nhu và phó chủ tịch Nguyễn thái Học trốn thoát.
Dạo đó nhiều bạn đồng chí ở bên Tầu muốn đón anh Học sang bên đó, nhưng anh nhất định không chịu đi.
Anh Nguyễn khắc Nhu sau cầm đầu trận đánh Hưng hóa và chết ở trận.
– Sau khi bị tiết lộ, đảng có hành động gì nữa không?
– “Sau việc bắt bớ năm 1929, chúng tôi, những người còn lại định tổ chức cuộc khởi nghĩa ở toàn hạt Bắc Kỳ, các bạn tôi chú ý nhất là Hà-nội. Vì vậy ở trường bay Bạch mai chúng tôi có tới hơn 30 người đội là đồng chí và trong đạo quân thứ 4 và thứ 9, có hơn ba trăm hạ sĩ quan là đảng viên.
Nhưng sau cuộc phản bạn của đội Dương, các võ trang đồng chí đều bị bắt và bị cách chức. Đảng có phái người đi trừng trị, đội Dương bị giết hụt và bố đội Dương là giáo Du thì bị giết ở đầu Hàng-Đậu.
Thành ra khi khởi nghĩa chỉ đánh được có Yến Báy, còn ở Hà-nội chỉ ném được có mấy quả bom.
Trong khi ấy ở Hải-dương, Bắc-ninh, Kiến-an, Thái-bình, Phả-lại, Hưng-hóa, Vĩnh-bảo, Phụ-dực đều có nội biến. Những nơi này các đảng viên cũng bị đàn áp và tan tác cả. Sau vụ Yên báy, lần đầu 13 người lên máy chém, trong đó có Ngô Hải Hoàng, Nguyễn Thanh Thuyết, Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính v.v.; lần thứ nhì hơn ba mươi người, tất cả hơn 50 người bị thiệt mạng! Ngoài ra gần 3 nghìn người bị đầy sang Inini [Tahiti? hay Guyane?], và ra Côn Đảo!
– Thế ông bị bắt vào hồi nào?
– Về phần tôi, năm 1929 bị kết án năm năm cấm cố (détention), 5 năm biệt xứ, không được đến các thành phố lớn!”
Nói đến Việt Nam Quốc Dân Đảng khi bị đàn áp, tôi chạnh lòng nhớ tới đảng trưởng và cô Giang một nữ đồng chí của ông nên hỏi tiếp: – Thưa ông, chúng tôi còn nhớ dạo đó đảng có nữ đồng chí là cô Giang, chẳng hay cô nhập đảng vào thời kỳ nào và giữa cô với Nguyễn thái Học có dây [sic] liên lạc mật thiết gì chăng?
Ông Nhượng Tống nói ngay:
– Cô Giang chính là vợ anh Nguyễn thái Học.
– Ông cho biết qua về thân thế Nguyễn thái Học?
– Nguyễn thái Học là sinh viên trường Cao đẳng thương mại và trước có học qua ban sư phạm. Anh người ít nói, nhưng nóng tính. Tôi quen anh năm đó vào trạc 24, 25. Quê anh ở làng Thổ tang, phủ Vĩnh tường, Vĩnh yên. Làng đó bị quân Pháp đốt phá khi đảng vỡ lở.
Cụ thân sinh ra anh đã mất. Nay chỉ còn cụ Bà mà tôi vừa tới thăm cách đây ít lâu. Anh có ba anh em. Em thứ nhất là Nguyễn văn Nho cũng vào đảng sau bị kết án tử hình. Em thứ ba năm nay mới ngoài 20 tuổi. Anh là người đồng quận của ông đội Cấn người đã cầm đầu cuộc đánh phá Thái nguyên. Theo chỗ tôi biết thì đời cách mệnh của anh chịu ảnh hưởng rất nhiều của đội Cấn.
Còn cô Giang. Nguyên đảng tôi không có lệ cho đàn bà nhập đảng. Cô thuộc về chi bộ Bắc giang. Chi bộ ấy thành lập trước khi có Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Vì anh xứ Nhu đã trót thu nạp nữ đồng chí, nên chỉ riêng có chi bộ đó có phụ nữ [… bị mờ mấy chữ…]
Cô Giang năm lấy anh Học độ hai mươi tuổi. Nhà chỉ có ba chị em gái, đều làm cách mệnh cả! Cô Bắc là chị cả, bị kết án đày chung thân. Cô thứ ba là cô Tỉnh không bị bắt. Cô Giang tự tử ở đầu làng anh Nguyễn thái Học. Nghe đâu hiện nay có miếu thờ cũng như người ta đã thờ Trần quang Diệu ở Cổ-am, vì anh là người đã đánh huyện Vĩnh-bảo!
– Người ta kể chuyện khi Nguyễn thái Học bị hành hình ở Yên-báy thì Cô Giang thu mình trong bộ áo mầu nâu có đứng trong đám quần chúng mà chứng kiến vụ tàn sát đó. Chuyện ấy có thật chăng?
– Có thể có được lắm, vì cô Giang là một đảng viên rất trung thành.
Sau khi biết cặn kẽ về Việt Nam Quốc Dân Đảng, tôi liền hỏi về tình hình hiện thời của đảng.
Người tôi tiếp chuyện thong thả trả lời như muốn cân nhắc từng câu nói:
– Ngày trước người Pháp đàn áp chúng tôi, thì chúng tôi phải lẩn trong bóng tối. Nay chúng tôi được tự do hành động.
Công việc hiện nay của đảng chúng tôi mong hợp nhất với đảng quốc gia để lãnh đạo cho quần chúng trong công việc nhận biết lấy nghĩa vụ và quyền lợi của một người công dân, để giúp đỡ chính phủ quốc gia cùng giám đốc các quan lại trong mọi công việc kiến thiết.
Làm như vậy là để mong nâng cao được trình độ sinh hoạt và tinh thần của đại đa số dân chúng.
Việc hợp nhất ấy cơ hồ đã thành sự thực. Một dân tộc khi phục sinh, bao giờ cũng trông ở một quốc hồn mạnh mẽ. Khi quốc hồn của ta đã mạnh mẽ thì sự đồng tâm sẽ được hết thảy các con nước…
Nói đến đây ông căn dặn:
– Ông nhớ gạch chữ con nước.
Rồi ông tiếp:
– Hết thẩy các con nước coi là thiêng liêng. Cho nên trông thấy sự hy sinh, sự cố gắng, sự một lòng một dạ của các anh em chân chính ái quốc đứng trước công việc ích trung trong lúc này, tôi rất lấy làm lạc quan. Tôi quả quyết tin rằng, với sự đồng tâm ấy, dân tộc Việt Nam ta đã bước sang một giai đoạn mới trên đường tiến hóa.”
– Đảng hiện nay có định chiêu tập một đại hội nghị để tiếp tục bàn các công việc?
– Không cần, Đảng chúng tôi trong lúc này chỉ là tiếp tục các công việc thường.
– Hiện giờ trong đảng ai làm đảng trưởng?
– Chúng tôi không hề có đảng trưởng. Quyền tối cao trong đảng trước kia là ở người chủ tịch Trung ương đảng bộ mà nay thì ở thường vụ ủy viên hội.
***
Cuộc phỏng vấn kéo dài đã gần hai tiếng đồng hồ. Chia tay từ giã giữa lúc màn tối bao phủ vạn vật, tôi tự nhủ, nếu còn người Pháp ở đây lẽ ra tên tôi cũng đã bị liệt vào bảng tình nghi và biết đâu một tên ma tà [nào?] chả theo rõi bóng tôi để dò la hành động. Vì tôi đã dám công nhiên nói chuyện với một cựu chính trị phạm và đặt chân vào một đảng bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng!
Đây là giai đoạn có vai trò lớn của người Nhật tại Đông Dương, đồng thời là giai đoạn gọi ngắn gọn là “Đế Quốc Việt Nam” – dường như cho đến nay các sử gia đã đồng loạt bỏ chữ “bù nhìn” khi nhắc tới “Chính phủ Trần Trọng Kim”.
Báo chí ở Hà Nội giai đoạn này như thế nào? Hết sức hỗn loạn. Ngoài Tri Tân là tờ tiếp tục ra, ta có Ngày Nay Kỷ nguyên mới (xem thêm ở kia) với vai trò quan trọng của Nguyễn Tường Bách, Khái Hưng và Nguyễn Trọng Trạc. Ngày Nay Kỷ nguyên mới giống như tiếp nối tờ Ngày Nay, sau khi các yếu nhân (Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, Khái Hưng Trần Khánh Giư và Nguyễn Gia Trí bị người Pháp bắt: sự kiện xảy ra vào đầu thập niên 40), và vào ngày 19 tháng Tám năm 1945, số cuối cùng của tờ báo này đang ở trong nhà in. Liên quan chặt chẽ đến câu chuyện của chúng ta, quãng thời gian này còn có tờ Bình Minh, là một tờ báo dính dáng nhiều đến người Nhật: theo hồi ký của Vũ Bằng, tờ này có thể coi là ý đồ của người Nhật lập ra “tam đầu chế” với Nguyễn Doãn Vượng, Nguyễn Giang và Khái Hưng; Nguyễn Doãn Vượng không nhận lời, Nguyễn Giang cùng Khái Hưng làm, nhưng gần như chắc chắn Khái Hưng lừng khừng ở đây, mà tập trung với bên Ngày Nay Kỷ nguyên mới (sau khi các nhân vật lớn của Tự Lực Văn Đoàn bị bắt, Nhất Linh thì trốn ra nước ngoài và bị giam ở hang đá Liễu Châu trước khi được tướng Trương Phát Khuê thả, Thạch Lam chính là người chăm lo nhà xuất bản, nhà in – tờ báo thì đã đình bản – cho tới lúc Khái Hưng được thả về Hà Nội, tuy vẫn bị quản thúc, năm 1943, thì Khái Hưng chịu trách nhiệm chính; khi Nhật đảo chính Pháp thì đương nhiên Khái Hưng không còn bị quản thúc nữa).
Báo Tri Tân (1945)
Quay trở lại với số báo Tri Tân (xem thêm về ý nghĩa của tờ báo này trong khung cảnh chung ở kia): trong “mục lục” ta đọc thấy một số cái tên. Nguyễn Văn Tố là yếu nhân của Tri Tân ngay từ đầu, H. B. là Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, một yếu nhân khác của tờ này, Tiên Đàm là Nguyễn Tường Phượng, chủ nhiệm kiêm quản lý của Tri Tân, Thi Nham là Đinh Gia Thuyết. Trong số các tác giả của số này, ít nhất có Thi Nham Đinh Gia Thuyết và Trúc Khê Ngô Văn Triện rất thân cận với Nhượng Tống, có thể coi là những người bạn của Nhượng Tống – có lẽ điều này giải thích việc Tri Tân cử người phỏng vấn Nhượng Tống.
Cách đây vài năm, tôi rất kinh ngạc khi biết Phạm Mạnh Phan, nhân vật quan trọng của Tri Tân về sau rất ít được biết đến, còn sống ở Hà Nội rất lâu, làm cho Thông tấn xã Việt Nam.
Bài phỏng vấn trên đây cần được coi là một chứng nhân quan trọng. Nếu đọc kỹ nó, ta sẽ biết, hoặc khẳng định được một số chi tiết. Trước tiên là liên quan đến lịch sử Việt Nam Quốc Dân Đảng (ta cũng cần để ý, Nhượng Tống ngay lập tức phân biệt VNQDĐ Nguyễn Thái Học với đảng của Nguyễn Hải Thần, điều này hết sức quan trọng, vì các loại tên gọi hao hao nhau có thể gây nhầm lẫn, và quả thật ngày nay vẫn rất nhiều người nhầm lẫn: Việt Quốc của giai đoạn 45-46 (thậm chí trước đó) hết sức phức tạp và gần như không có chút dính dáng nào tới VNQDĐ 1930): nhiều chi tiết ở đây sẽ được nhắc lại kỹ lưỡng hơn ngay sau đó, vì ngày 17 tháng Sáu năm 1945, tức là chỉ hơn một tháng sau bài phỏng vấn này, Nhượng Tống sẽ cho in cuốn sách quan trọng về Nguyễn Thái Học (xem hình ảnh quyển sách ở kia).
Nhưng ngoài đó ra, còn có các chi tiết liên quan đến tiểu sử Nhượng Tống. Nhờ chính những lời này, ta biết cụ thể án mà Nhượng Tống phải chịu hồi 1929: 5 năm tù, 5 năm biệt xứ. Chi tiết theo đó năm 1936 Nhượng Tống từ Côn Đảo về mà mọi tiểu sử Nhượng Tống đều viết cho tới tháng Chín 2015 là sai: án của Nhượng Tống là 5 năm Côn Đảo, nhưng có vẻ Nhượng Tống được thả về sớm hơn một chút, vì theo như ở kia, năm 1933 (lẽ ra phải là 1934) Nhượng Tống đã rời Côn Đảo. Khi Nhượng Tống nhắc lúc mình 21 tuổi cũng quan trọng: thời điểm ấy hẳn là 1927: như vậy đã rất rõ ràng là Nhượng Tống sinh năm 1906, tức là các tiểu sử trước nay đều sai. Tôi nghĩ, trước đây người ta sai năm sinh này thì còn hiểu được, nhưng đến đầu những năm 2000 mà vẫn còn sai như vậy thì thật kỳ quặc, không thể hiểu nổi. Tôi sẽ trở lại với riêng chi tiết này sau.
Thông tin mà tôi thấy đặc biệt giá trị liên quan đến cuốn sách Cách mệnh tiên thanh: như vậy cần phải ghi thêm vào danh mục trước tác của Nhượng Tống thêm một tác phẩm. Niên đại của nó hẳn nằm trong khoảng từ 1926 đến 1929. Gần như không có hy vọng gì tìm lại được cuốn sách ấy nữa, nhưng nhờ ở đây, ít nhất ta có thể kết luận trong cuốn sách ấy, Nhượng Tống kết tội người Pháp (32 điều), trong sách cũng có một bài “cách mệnh ca” và một bài “quốc ca” (tên cuốn sách ấy có xuất hiện trong cuốn sách về Nguyễn Thái Học, nhưng không kèm các chi tiết như ở đây).
Phạm Mạnh Phan (báo Tri Tân)
https://vietquoc.org/ky-niem-thanh-lap-vnqdd-thu-93-bao-tri-tan-phong-van-nhuong-tong-1945/#more-34026
Hình thật của đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng: Nguyễn Thái Học
Published 22/12/2016 | By VQ5
Từ lâu, chúng ta chỉ làm lễ tưởng niệm với những tấm hình theo chân dung, qua nhiều tài liệu đã tìm thấy hình thật của cố đảng trưởng Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học do thực Pháp chụp lúc bị bắt ở Hoả Lò, Hà Nội vào tháng 2, 1930. Hình đang bận áo và mang số tù của bọn thực dân Pháp xâm lược…. Nhưng với Việt Nam ông là vị anh hùng dân tộc được bao thế hệ mai sau ngưỡng mộ, tôn vinh và noi gương…
https://vietquoc.org/hinh-that-cua-dang-truong-viet-nam-quoc-dan-dang-nguyen-thai-hoc/
VNQDĐ: Anh hùng chống Pháp, đến khi Hồ Chí Minh xuất hiện, thì là… bọn phản động!
Published 20/12/2016
Nguyễn Thái Học (1901-1930)
Nhân chào mừng Đảng Sinh VNQDĐ năm thứ 89, trang nhà https://vietquoc.org ghi lại một vài sự kiện đấu tranh giữa VNQDĐ và CSVN trước đây, mà nay nếu không đem sự thật lịch sử đối chiếu, thì qua những câu chuyện của bọn công an và những tên “răng đen mã tấu – vô sản chuyên chính” của chế độ Công Sản vẫn tiếp tục nghề bồi bút, lải nhải trên các báo của bọn chúng nhằm mục đích tuyên truyền bôi nhọ những chính đảng yêu nước quốc gia, như nói về vụ án Ôn Như Hầu ngày 12/07/1946 là một. Sự xảo trá này đã bị những ngòi bút có lương tri trong nước chỉ thẳng vào mặt bọn chúng mà nói rằng đừng “lấy bàn tay che ánh sáng mặt trời”, như bài viết trên danlambao.com của Nguyễn Hồn Việt.
Trước khi đọc bài của Nguyễn Hồn Việt, xin quý độc giả bấm vào link này: https://vietquoc.org/vu-on-nhu-hau/ để đọc về Vụ Ôn Như Hầu ghi lại bởi cụ Việt Dân Hoàng Văn Đào:
Việt Nam Quốc Dân Đảng: Anh hùng chống Pháp!
Đến khi Hồ Chí Minh xuất hiện, thì lại là… bọn phản động!
– Như Việt Nam Quốc Dân Đảng đã hình dung: Dù họ có đánh đổ được Pháp, Nhật thật thì họ vẫn đến một thời kỳ “xây dựng Hiến pháp và trao trả chính quyền lại cho toàn dân.” Họ đâu có độc chiếm như Cộng Sản Hồ?
– Chỉ nội việc này nó đã là một sự văn minh! Mà so sánh với nó thì đảng Cộng Sản của Hồ Chí Minh chỉ như nước với lửa, như trắng với đen, như Chính nghĩa với hung tàn, như ông Tiên với ác quỷ vậy!
– Rồi, Hồ tiêu diệt Việt Nam Quốc Dân Đảng qua vụ án kinh khủng: Vụ án phố Ôn Như Hầu!
***
1- Việt Nam Quốc Dân Đảng – Trao trả chính quyền lại cho toàn dân
“…Nguyễn Thái Học lập đảng
…Ba thời kỳ
Cũng trong đêm 25 tháng 12 năm 1927, sau khi đưa ra mục tiêu đấu tranh đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam, Lào và Cambodia, Nguyễn Thái Học cùng với 36 đại biểu đại diện cho 14 tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, đa số cùng trạc tuổi với ông, vạch ra một lộ trình cho Việt Nam Quốc Dân Đảng, nhằm thực hiện mục tiêu của sách lược Dân Chủ Hoá Đông Dương.
Trong đêm lịch sử ấy, họ đã chia lộ trình của cuộc đấu tranh làm nhiều giai đoạn. Giai đoạn cuối của lộ trình là công cuộc kiết thiết đất nước được chia làm ba thời kỳ và ghi lại trong văn kiện sau:
1) Thời kỳ Quân chính: Quân cách mạng chiếm được đến đâu là lập ngay chính quyền cách mạng quân sự đến đó.
2) Thời kỳ Huấn chính: Tổ chức các cơ cấu dân cử, trực tiếp hoặc gián tiếp giáo hoá dân quen với nếp sống dân chủ về các thể chế mới, v.v… Trong hai thời kỳ này áp dụng nguyên tắc “Dĩ Đảng Trị Quốc.”
3) Thời kỳ Hiến chính: Tổ chức phổ thông đầu phiếu bầu cử Quốc Dân Đại hội, xây dựng Hiến pháp và trao trả chính quyền lại cho toàn dân.
Trong ba thời kỳ của giai đoạn kiết thiết, thì hai thời kỳ sau là đáng chú ý; vì nó đề cập đến việc thành lập một thể chế dân chủ cho Việt Nam.
Nội dung của thời kỳ Huấn chính chứng tỏ là họ đã nghiên cứu những khó khăn trong tiến trình thay đổi chế độ từ phong kiến sang dân chủ. Cái khó khăn nhất mà họ đương đầu là nâng cao trình độ văn hoá và kiến thức của người dân.
Điều này được diễn tả trong văn kiện khá rõ ràng qua kế hoạch tổ chức các cơ cấu dân cử, cũng như kế hoạch giáo hóa người dân về bổn phận, trách nhiệm, và quyền hạn của họ trong một chế độ dân chủ. Đó cũng là lý do tại sao họ đưa ra chính sách “Dĩ Đảng Trị Quốc” trong giai đoạn này. Vì đây là thời kỳ này là giai đoạn đất nước chuyển tiếp từ chế độ quân chủ phong kiến sang chế độ dân chủ.
Đòi hỏi một sự chuẩn bị công phu và chu đáo để trang bị những kiến thức căn bản về dân chủ cho người dân. Giai đoạn chuyển tiếp là giai đoạn tranh tối tranh sáng.
Quyền dân chủ có thể bị vi phạm một cách nghiêm trọng vì vô tình hoặc cố ý. Không cẩn thận thì đất nước sẽ rơi vào hoàn cảnh rối loạn, xã hội mất an ninh trật tự, cuộc sống người dân sẽ bất ổn.
Do đó, chủ trương nắm quyền điều khiển đất nước của họ trong giai đoạn ấy là hợp lý. Đây có lẽ là thời kỳ quan trọng nhất trong giai đoạn kiến thiết. Qua sự phân tích trên, người ta nhận thấy Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đã thấy được những ưu điểm của thể chế dân chủ, nên họ đã nghiên cứu kỹ lưỡng về thể chế tiến bộ đó và những đòi hỏi căn bản cần thiết của nó trước khi vạch ra lộ trình cho sách lược Dân Chủ Hoá Đông Dương.
…(*) Nhượng Tống và Hoàng Văn Đào là sáng lập viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cùng với Phạm Tuấn Tài và Phạm Tuấn Lâm, năm 1925, Nhượng Tống thành lập Nam Đồng Thư Xã, tiền thân của Việt Nam Quốc Dân Đảng. (2)”
2- Một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc
“Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng tuy thất bại nhưng thực sự là một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Với tư cách là người sáng lập và lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng, Nguyễn Thái Học thực sự là một trong những người tiêu biểu nhất thuộc lớp trí thức Tây học sớm dấn thân, xả thân cứu nước trong nửa đầu thế kỷ XX. Tấm gương hy sinh dũng cảm của ông trở thành một nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ các thế hệ thanh niên trí thức yêu nước sau này trong cuộc đấu tranh gian khổ, ác liệt lâu dài vì độc lập và tự do của tổ quốc. Nguyễn Thái Học “không thành công” nhưng đã thực sự “thành nhân”. Và tên của ông được đặt cho một trong những con phố lớn tại Hà Nội.”
Nhận xét:
“Thời kỳ Hiến chính: Tổ chức phổ thông đầu phiếu bầu cử Quốc Dân Đại hội, xây dựng Hiến pháp và trao trả chính quyền lại cho toàn dân.” Chỉ nội việc này nó đã là một sự văn minh! Mà so sánh với nó thì đảng Cộng Sản của Hồ chỉ như nước với lửa, như trắng với đen, như Chính nghĩa với hung tàn, như ông Tiên với ác quỷ vậy!
Việc Cộng Sản HCM hiện nay thường vin vào: “Có công đánh Pháp, đuổi Nhật” để hiện nay đòi độc quyền cai trị – so với Quốc Dân Đảng thì thật là trơ trẽn!
Như Quốc Dân Đảng đã hình dung: Dù họ có đánh đổ được Pháp, Nhật thật thì họ vẫn đến một thời kỳ “xây dựng Hiến pháp và trao trả chính quyền lại cho toàn dân.” Họ đâu có độc chiếm như Cộng Sản Hồ Chí Minh ?!
Mà có thật Hồ Chí Minh “có công đánh Pháp, đuổi Nhật”? Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu thêm sau.
3- Vụ án phố Ôn Như Hầu– Hồ Chí Minh bịa đặt chứng cứ để tiêu diệt Quốc Dân Đảng
Việt Nam Quốc Dân Đảng có phản động thật không? Cương lĩnh của họ nói thế nào? Họ đánh Pháp ra sao? Còn quan điểm chính trị thì họ là khác Đảng của Hồ nên không thể quy kết họ được! Bằng chứng phản động của họ thế nào?
“Vụ án phố Ôn Như Hầu là vụ án xảy ra tại Hà Nội năm 1946. Sở Công an Bắc Bộ điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ chứng tỏ Việt Nam Quốc Dân Đảng âm mưu đảo chính nhằm lật đổ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ đó đã lập Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu phá vỡ âm mưu này.[3] Tuy nhiên Việt Nam Quốc Dân Đảng và một số sử gia phương Tây cho rằng đây là một vụ việc do Việt Minh dựng lên nhằm triệt hạ đối thủ chính trị của mình là Việt Nam Quốc Dân Đảng.” (3)
a) Thu thập chứng cứ?
Báo Công An Nhân Dân của bọn Cộng Sản Việt Nam viết: “Bọn Việt Nam Quốc Dân Đảng luôn có dã tâm lật đổ chính quyền cách mạng; đã ráo riết chống phá ta liên tục nhưng không thực hiện được dã tâm đó. Nhân cơ hội Hiệp ước Hoa – Pháp ký kết, quân Pháp thay chân Tưởng chiếm đóng Bắc Bộ, chúng đã xúc tiến kế hoạch đảo chính hòng lật đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền làm tay sai cho Pháp.
Được quân Pháp giúp sức, Quốc Dân Đảng vạch kế hoạch: Lợi dụng quân Pháp tổ chức diễu binh mừng Ngày Quốc khánh (14/7), khi đi qua Bắc Bộ Phủ, chúng sẽ ném lựu đạn để gây đổ máu. Với lý do này, Pháp đổ lỗi cho ta, kéo ngay vào Bắc Bộ Phủ bắt các thành viên Chính phủ, tuyên bố thành lập chính quyền mới của Quốc Dân Đảng, làm tay sai cho Pháp.
Trinh sát chính trị của Sở Công an Bắc Bộ và Nha Công an theo dõi, bí mật bắt một số tên khai thác và nắm được âm mưu đảo chính của Quốc Dân Đảng từ mấy tháng trước. Ty tập trung tài liệu, còn xây dựng được 2 cơ sở đánh vào trụ sở quan trọng nhất của Quốc Dân Đảng là 132 phố Đuy-vi-nhô (Bùi Thị Xuân ngày nay), cung cấp cho ta những tin tức rất giá trị về âm mưu và hoạt động của chúng. Nhưng đến ngày 11/7, ta vẫn không thu được một bằng chứng nào để trình Chính phủ cho phép mở cuộc trấn áp. Đêm 11/7, cơ sở báo tin chúng đã in xong các loại truyền đơn, lời hiệu triệu, một số đã chuyển đi các tỉnh, sáng sớm 12/7 các trụ sở ở Hà Nội sẽ rút vào bí mật để thực hiện giai đoạn cuối cùng là lật đổ chính quyền cách mạng.
Đêm đó, lãnh đạo Nha Công an và lãnh đạo Sở Công an Bắc Bộ tiến hành 3 cuộc họp liên tục để bàn kế sách trấn áp. Cuộc họp cuối cùng diễn ra vào 12h đêm, và thống nhất quyết định: Phải đột kích vào trụ sở 132 Đuy-vi-nhô, thu chứng cứ trình Chính phủ để xin được mở cuộc trấn áp Quốc Dân Đảng. Nếu không sẽ không còn thời cơ, vận mệnh của quốc gia, dân tộc là trên hết.” (4)
b) Phương pháp…thu thập chứng cứ
Báo Văn Nghệ của Công An Cộng Sản- Lê Hữu Qua viết: “Hồi đó để tiếp cận được các tin tức tình báo về tình hình và âm mưu của địch, một tổ trinh sát của Công an Bắc Bộ đã phải cải trang mai phục tại một hiệu cắt tóc ở góc phố Cửa Đông (Hà Nội), nơi mà sĩ quan Pháp thường hay đến cắt tóc để thu thập tin tức. Một số trinh sát khác cài cắm trên các chuyến xe lửa từ Huế ra Hà Nội cũng lượm lặt được các thông tin mà bọn phản động trao đổi với nhau về một âm mưu đảo chính.
Chưa hết, theo chỉ đạo của lãnh đạo Ty Liêm phóng, một số trinh sát còn đóng giả là người ăn mày, kéo xe, đánh giày hoặc làm con sen người ở cho các gia đình sĩ quan Pháp ở Hà Nội cũng đã thu được những tin tức liên quan đến âm mưu thâm độc của kẻ địch nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Qua các nguồn tin này, ta biết được quân đội viễn chinh Pháp đang ráo riết chỉ đạo các đảng phái phản động trong nước làm cuộc đảo chính, lật đổ chính phủ ta vào ngày 14 tháng 7 năm 1946.” (6)
c) Cái gọi là… chứng cứ của Cộng Sản Hồ Chí Minh đưa ra?
Những đoạn dưới đây trích từ báo Công An Nhân Dân của CSVN:
Trích:
“Mờ sáng 12/7, một tiểu đội Công an xung phong và trinh sát chính trị bất ngờ đột kích vào 132 Đuy-vi-nhô. Khi ấy, hơn 20 tên Quốc Dân Đảng còn đang nằm ngủ la liệt trên sàn nhà, bên những đống truyền đơn, tài liệu đã đóng gói. Cuộc đột kích thắng lợi, ta thu một xe cam nhông tài liệu phản động và cả máy in, bắt hết bọn ở đó. Nhờ có bằng chứng rõ ràng, Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng lập tức ra lệnh cho phép lực lượng An ninh mở cuộc trấn áp tất cả các trụ sở công khai và bí mật của Quốc Dân Đảng.” (4)
“Được nhân dân ủng hộ, trong hai ngày 12 và 13/7, ta khám xét 41 điểm là trụ sở công khai và bí mật của bọn phản động, bắt hơn 300 tên, trong đó có Phan Kích Nam là Bí thư Đệ nhất khu; y còn có chân trong Quốc hội. Trong khi trấn áp, ta còn mở một cuộc triển lãm về tội ác của chúng tại số 7 phố Ôn Như Hầu, hàng vạn đồng bào ở Hà Nội đến xem, càng nhận rõ bộ mặt quốc gia giả hiệu của Quốc Dân Đảng. Vì thế, đồng bào càng tích cực giúp đỡ, tạo ra áp lực chính trị mạnh mẽ, làm cho quân đội Pháp không dám can thiệp.
Cuộc trấn áp không chỉ được tiến hành ở Hà Nội, mà nhân thời cơ đó, Nha Công an chỉ đạo các tỉnh đồng loạt mở cuộc trấn áp Quốc Dân Đảng. Đây là quyết định rất sáng suốt, có tác dụng to lớn là chúng ta đã làm tan rã lực lượng của một đảng chính trị phản động nhất, có thực lực nhất lúc bấy giờ. Lực lượng vũ trang ở các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ… liên tục tấn công, dẹp tan chính quyền phân liệt của chúng ở một số xã, củng cố một bước chính quyền cách mạng.
Cuộc tổng trấn áp Quốc Dân Đảng thắng lợi, đập tan cuộc đảo chính phản cách mạng do chúng câu kết với quân đội viễn chinh Pháp trước 48 giờ” (4)
“Minh Ngọc (Ghi theo lời kể của ông Lê Hữu Qua, Phó Chủ sự Phòng Chính trị Sở Công an Bắc Bộ, trực tiếp chỉ đạo phá án; tháng 7-1996)” (4)
Hết trích
Nhận xét: Cái gọi là chứng cứ: “những đống truyền đơn, tài liệu đã đóng gói.” (ta thu một xe cam nhông tài liệu phản động và cả máy in). Nhỡ “ta” lấy ở đâu rồi bảo là của Quốc Dân Đảng thì Quốc Dân Đảng (khi đó đã bị bắt) có cãi được không nhỉ? Láo thật!
d) Cùng câu chuyện có nhiều phiên bản khác khác nhau
d.1) Phiên bản 2:
Trích báo Văn nghệ Công An Nhân Dân (năm 2005) viết láo:
“…Cũng trong thời gian này, ở Hà Nội, qua công tác nghiệp vụ, các trinh sát của Ty Liêm phóng phát hiện bọn Quốc Dân Đảng có trụ sở ở 132 đường Đuy-vi-nhô (nay là phố Bùi Thị Xuân) đang ráo riết hoạt động, in tài liệu, truyền đơn phản động và bắt cóc, giết người. Sau khi có đủ chứng cứ, vào lúc 2h30’ ngày 12/7/1946, các chiến sĩ Công an đã bắt gọn toàn bộ bọn phản động, đầu sỏ ở đây, thu giữ các tài liệu phản động, truyền đơn, áp phích, thông báo mà chúng vừa in xong, trong đó có bản tài liệu do chính Trương Tú Anh soạn thảo về “Kế hoạch đảo chính Chính phủ Hồ Chí Minh”. ” (7)
d.2) Phiên bản Trần Tấn Nghĩa – Phiên bản 3
“Phải 3 lần tay không vào trụ sở Quốc dân Đảng tại số 7 phố Ôn Như Hầu Đội trưởng Đội trinh sát đặc biệt của Sở Công an Bắc Bộ (Đại tá Trần Tấn Nghĩa) đã bắt sống được Phan Kích Nam.
Theo ông kể, cuối tháng 6/1946, Nha Công an Trung ương nhận được nguồn tin của cơ sở phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với bọn phản động Quốc Dân Đảng đang chuẩn bị thực hiện âm mưu đảo chính chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau khi xin ý kiến trung ương về âm mưu thâm độc này, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng ta lúc bấy giờ đã cho ý kiến chỉ đạo phải tập trung trấn áp bọn phản cách mạng, nhưng phải có đủ chứng cứ.
Nha Công an Trung ương cử trinh sát điều tra và thu thập được nhiều chứng cứ chứng minh các hành vi tội ác của bọn phản động Quốc Dân Đảng. Cụ thể là chúng đang ráo riết in tài liệu, truyền đơn phản động, bắt giết cán bộ… để thực hiện âm mưu đảo chính. Một cuộc họp của Nha Công an kéo dài đến 12h đêm ngày 11/7/1947 đã đi đến quyết định phải bí mật, bất ngờ tập kích trụ sở của chúng ở 132 Đuy-vi-nhô (phố Nguyễn Gia Thiều ngày nay).
“Hôm đó là ngày 12/7/1946, vào khoảng bảy giờ sáng, Đội trinh sát đặc biệt chúng tôi ngồi trên chiếc ôtô hòm từ Sở Công an Bắc Bộ (Công an Hà Nội bây giờ) theo đường Trần Bình Trọng đến Ôn Như Hầu. Theo kế hoạch, tôi mang theo mệnh lệnh sự vụ để thực hiện nhiệm vụ bắt, khám xét những người có mặt tại trụ sở số 7 phố Ôn Như Hầu can tội tống tiền, bắt cóc người đưa về Sở Công an Bắc Bộ. Khi chúng tôi đến thì lực lượng Công an xung phong và tự vệ chiến đấu của ta đã bao vây trụ sở.
Tôi xuống xe và ra hiệu cho toàn đội trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Việc đầu tiên là cắt dây điện thoại để không cho chúng liên lạc với nhau. Với thái độ đĩnh đạc, tôi tiến sát đến cổng, nói với tên lính gác (lúc đó có khoảng một tiểu đội lính gác vũ khí đầy đủ và trên hành lang cũng có nhiều lính có vũ khí, sát khí đằng đằng, sẵn sàng bấm cò nhả đạn…) Tôi lớn tiếng gọi chúng mở cổng, đón tiếp người của Sở Công an Bắc Bộ đến nói chuyện với chỉ huy của chúng.
Lời qua tiếng lại, rồi sau khoảng năm phút chúng buộc phải mở cổng và chỉ cho một mình tôi vào trụ sở. Chúng đưa tôi đến sảnh đường và Phan Kích đón tôi ở đây. Sảnh đường trang hoàng sang trọng, có ý khoe khoang các loại vũ khí và bọn vệ sĩ.” (5)
“…Lần thứ 3 tôi quay lại số 7 Ôn Như Hầu khoảng 10h30, tên vệ sĩ chờ sẵn để đưa tôi vào gặp Phan Kích Nam. Khi vào tôi chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt trên bàn. Phan Kích Nam rót nước mời tôi. Một lát, tôi tỏ ra buồn bực và đứng dậy cáo biệt, rút lui, vờ quên súng ở bàn. Phan Kích Nam vội vàng cầm súng của tôi đi theo và bảo: “Này chú em, chú quên súng này”.
Nhanh như cắt, tôi rút khẩu colt từ trong bụng (bên ngoài tôi mặc blouson), chĩa thẳng nòng súng vào đầu nó và dõng dạc quát: “Đứng im, động đậy tao bắn vỡ sọ”. Và bằng động tác nhanh gọn, lấy mu bàn tay trái chặt vào gáy hắn. Hắn lảo đảo rồi khuỵ xuống. Tôi bẻ quặt tay hắn ra đằng sau và ra lệnh tất cả phải bỏ súng, không được chống cự. Hắn ngoan ngoãn làm theo lệnh của tôi. Sau đó tôi lệnh cho anh em trinh sát và các lực lượng theo đúng kế hoạch xông vào bắt xích tay tất cả đưa chúng về Sở Công an Bắc Bộ”.
Khám phá vụ án này, ta đã thu được toàn bộ tài liệu phản động như truyền đơn, khẩu hiệu, áp phích, thông cáo của chúng, có loại đã buộc thành bó, có loại đang in dở. Đặc biệt là ta đã thu được một bản “Kế hoạch đảo chính chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh”.” (5)
Nhận xét qua hai lời kể của Trần Tấn Nghĩa đã sai với lời kể của Lê Hữu Qua!
Lê Hữu Qua: “Mờ sáng 12/7, một tiểu đội Công an xung phong và trinh sát chính trị bất ngờ đột kích vào 132 Đuy-vi-nhô. Khi ấy, hơn 20 tên Quốc Dân Đảng còn đang nằm ngủ la liệt trên sàn nhà, bên những đống truyền đơn, tài liệu đã đóng gói.”
Trần Tấn Nghĩa: “Lần thứ 3 tôi quay lại số 7 Ôn Như Hầu khoảng 10h30, tên vệ sĩ chờ sẵn để đưa tôi vào gặp Phan Kích Nam. Khi vào tôi chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt trên bàn.”
Vậy thì ai đúng ai sai: Qua hay Nghĩa?
– Sự thật là chẳng một ai đúng cả! Chúng đã ồ ạt tấn công Việt Nam Quốc Dân Đảng rồi bịa chuyện, vì là chuyện bịa nên có nhiều phiên bản! Còn nếu sự thật chỉ có một.
5- Những người Việt Nam Quốc Dân Đảng tiếp tục bị thủ tiêu và khủng bố
5.1 – Nhượng Tống
“Ngày 17 tháng 2 năm 1947, Việt Nam Quốc Dân Đảng tham gia Mặt trận Quốc gia Thống nhất Toàn quốc, chống lại chính quyền Việt Minh và ủng hộ giải pháp Bảo Đại, thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông làm cố vấn cho Tổng trấn Bắc phần Nghiêm Xuân Thiện. Nhưng rồi vì những mâu thuẫn trong giới chính khách Hà Nội, trong nội bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng, nên đầu năm 1949, ông lặng lẽ trở về hành nghề thầy thuốc Bắc tại 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Ngày 8 tháng 11 năm 1949, Nhượng Tống bị công an mật Việt Minh ám sát tại Hà Nội vì bị cho là phản quốc.” (8)
5.2 Nguyễn Triệu Luật – mất tích 1946!
“Nguyễn Triệu Luật (1903-1946), bút hiệu: Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ; là nhà giáo, nhà văn, nhà báo và là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng vào năm 1927 tại Việt Nam.
…Năm 1940, ông bị thực dân Pháp đưa đi an trí, và qua đời năm 1946, lúc 43 tuổi [3]….Trong Từ điển văn học (bộ mới, 2004, tr. 1200), Nguyễn Vinh Phúc ghi là: “Khoảng năm 1945-1946, Nguyễn Triệu Luật trở lại hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng và bị mất tích cuối năm 1946”. Tuy nhiên, trong “Lời giới thiệu” bộ Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật xuất bản năm 2011, ông đã sửa lại như trên.” (9)
5.3 – Vũ Hồng Khanh
“Sau sự kiện năm 1975, Vũ Hồng Khanh theo lệnh chính quyền Cách mạng mới đưa đi tập trung học tập cải tạo, dù ông đã 77 tuổi.
Năm 1986 ông được trả tự do và về sống trong tình trạng bị quản thúc tại quê nhà ở làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc với người con gái lớn là bà Vũ Thị Được. …Năm 1992, ông được phép vào Thành phố Hồ Chí Minh thăm con gái và con rể.
Ngày 14 tháng 11 năm 1993 ông mất tại quê nhà làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, hưởng thọ 95 tuổi.” (10)
5.4 – Một người Quốc Dân Đảng bình thường…
“Nhằm củng cố và phát triển phong trào cách mạng, sau tết Nguyên đán Đinh Hợi năm 1946, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Việt Minh Trung Bộ điều động một lực lượng tuyên truyền xung phong gồm 9 người, do đồng chí Đào Duy Dếnh chỉ huy, ra Thanh Hóa phối hợp với Đội Trinh sát Sao Vàng của Việt Minh tỉnh và lực lượng cảnh sát xung phong Thanh Hóa tiến quân trừng trị bọn Quốc Dân Đảng. Một buổi sáng tháng 2-1946, Đội Trinh sát Sao Vàng đã bắn chết Hoàng Văn Bách, một tên Quốc Dân Đảng phản động nhất.” (6)
Nhận xét: Đây là một người bình thường, ít tên tuổi, vậy mà đã vậy, những người khác thì sao? Nhiều lắm! Phần này đề nghị độc giả cung cấp thêm….vì còn nhiều…nhiều lắm đảng viên VNQDĐ bị CSVN thủ tiêu
5.5 – Con cháu Nguyễn Thái Học bị coi là: “bọn phản động Quốc Dân Đảng”!
“Tôi ngước lên gian thờ chính. Nghiêm ngắn trên kia là ảnh Nguyễn Thái Học cùng cô Giang. Ảnh ông Nho, ông Lâm đã mờ cùng vàng xuộm thời gian. Không có ảnh của hai cụ Hách và Quỳnh. Nhưng rờ rỡ nổi bật là bằng chứng nhận danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng cho cụ bà Nguyễn Thị Quỳnh. Ba người con của mẹ đều bỏ mình vì nước!
Nhà có hai bác ruột và bố là liệt sĩ, ông Nguyễn Văn Tuấn (sinh năm 1940) thân phận chắc phải hanh thông? Nhưng chả phải. Nếu suôn sẻ thì có lẽ chỉ khúc đầu… Năm 1960, Tuấn tốt nghiệp cấp 3 và được tuyển vào Đại học Kiến trúc. Thông minh tháo vát, Tuấn ngoài việc học tích cực tham gia phong trào đoàn thể, rồi Tuấn được kết nạp vào Đảng khi mới ngoài 20 tuổi. Đến năm thứ 3 được bầu là Bí thư Đoàn trường.
Một hôm Tuấn được gọi lên ban Giám hiệu. Vị phụ trách tổ chức, vốn chỗ quen biết lâu nay tự dưng chiếu cái nhìn lạnh tanh về phía Tuấn đồng chí lâu nay có cảm giác gì không? Tuấn lúng túng: dạ không!… Đồng chí khi đứng trước cờ Đảng tuyên thệ luôn thành thực với tổ chức đó chứ? Tuấn hoang mang không biết ông này đang làm gì mình?
Thì đây! Với chất giọng tự dưng đanh lại, vị phụ trách tổ chức nói Tuấn phải khai lại lý lịch một lần nữa.
Không phải về nhà, mà khai ngay tại phòng làm việc.
Tuấn không biết khai lại để làm gì nhưng anh vẫn cung cúc thực hiện.
Hơn hai tiếng đồng hồ qua.
Vồ lấy bản vừa khai, vị tổ chức ngốn ngấu đọc, rồi bảo Tuấn cứ ngồi đợi. Vị ấy bỏ đi…
Trở lại, vẻ nghiêm trang, vị ấy nhìn thẳng vào Tuấn gằn giọng có đúng là hai người bác ruột anh (không còn đồng chí nữa) là Nguyễn Thái Học, Nguyễn Văn Nho là lãnh tụ VNQDĐ và bố anh, Nguyễn Văn Lâm từng tham gia VNQDĐ?
Vâng, riêng bố tôi được Đảng giác ngộ tham gia Việt Minh và vào bộ đội và là liệt sĩ chống Pháp… Điều đó tôi đã khai rõ trong lý lịch Đảng và bản khai vừa rồi…
Vị ấy đứng lên: Thôi anh có thể về.
Liền sau đó là hậu họa… Cả trường rầm lên cái tin Bí thư Đoàn trường Nguyễn Văn Tuấn bị đuổi học vì có bố, bác từng theo bọn phản động Quốc Dân Đảng. Một phần tử phản động chui sâu và leo đến chức Bí thư Đoàn trường! May mà tổ chức đã phát hiện ra.
Tuấn như cái cây cứng cáp xanh tốt thốt nhiên bị bứng gốc rũ xuống… Gõ hàng chục cửa công quyền và người quen, đâu đâu cũng cái nhìn lạnh tanh và lảng tránh… Bà nội, bố và các bác đều đã mất, kêu khóc với ai bây giờ?
Bà vợ ông Tuấn nãy giờ ngồi lặng nghe chồng nói đến khúc nhôi ấy khẽ thở dài: Cái thời ấy nó thế các bác ạ. May mà không phải cái hồi cải cách. Vu là Quốc dân Đảng còn không được toàn mạng ấy chứ lỵ…
Cái thời nó thế? Có lẽ không có cái thở dài và lời than nào hợp lý hơn?
Trở về Thổ Tang không còn nghề canh cửi nữa mà Tuấn thành anh thợ cày” (11).
Nhận xét:
Xã hội đảo điên!
Anh Hùng thành Phản Động!
Ba tàu trở thành Cha già Dân Tộc!
=====================
Chú thích:
(1). Kế hoạch ‘dân chủ hóa Đông Dương’ – BBCVietnamese.com
(2). Nguyễn Thái Học – Vị lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, một trí thức yêu nước bất khuất,
(3). Vụ án phố Ôn Như Hầu – Wikipedia tiếng Việt
(4). Phá vụ án Ôn Như Hầu – một chiến công chói lọi của lực lượng An ninh nhân dân
(5). Vụ án Ôn Như Hầu qua lời kể của Đại tá Trần Tấn Nghĩa… – kyvatlichsucand.vn
(6). Thiếu tướng Lê Hữu Qua và những chiến công trên trận tuyến an ninh
(7). Lực lượng CAND những ngày đầu cách mạng, vnca.cand.com.vn
(8). Nhượng Tống – Wikipedia tiếng Việt
(9). Nguyễn Triệu Luật – Wikipedia tiếng Việt
(10). Vũ Hồng Khanh – Wikipedia tiếng Việt
(11). Biên chép ở Thổ Tang- Kỳ cuối: Chuyện nhà Nguyễn Thái Học, tienphong.vn, 01 tháng 04 năm 2015.
https://vietquoc.org/vnqdd-anh-hung-chong-phap-den-khi-ho-chi-minh-xuat-hien-thi-la-bon-phan-dong/#more-27782
Không có nhận xét nào