Header Ads

  • Breaking News

    VNCS: Ngày Độc lập đừng quên ơn người Mỹ

    Anh Quoc

    26/8/2025

    Lực lượng Việt minh do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 hoạt động tại vùng rừng núi Việt Bắc là một tổ chức chính trị nhằm tập hợp lực lượng đa thành phần với mục đích giành độc lập cho Việt Nam.

    Việt minh lúc đó không có trợ giúp quân sự của bên ngoài, dù rằng họ cũng được chu cấp tài chính từ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng giới Thạch, với mục đích duy trì một lực lượng chính trị thân Trung Quốc ngăn chặn ảnh hưởng của Pháp đến Đông Dương…

    Hồ Chí Minh nhận thấy phong trào của ông cần được người Mỹ biết đến như một lực lượng chống Phát xít Nhật ở Đông Dương, qua đó sẽ có trợ giúp vũ khí của người Mỹ.

    Trong cuốn: Why Vietnam? của Archimedes Patti, một sỹ quan tình báo của lực lượng OSS (Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ), người đã tiếp xúc với Hồ Chí Minh vào năm 1943 tại Trùng Khánh- Trung Quốc có đoạn:

    “Nhờ có đầu óc phân tích, bản chất thực dụng và một sự thông hiểu sâu sắc tình hình chính trị thế giới, ông Hồ đã rất sớm rút ra kết luận phải tranh thủ cảm tình của nước Mỹ. Ông đã xác định được không thể coi Trung Quốc như là một Đồng minh và thậm chí còn hơn thế nữa, có thể trở thành đối kháng. 

    Ông đoán trước sẽ không có một sự ủng hộ tích cực về phía nước Nga “anh dũng” đối với kế hoạch giành độc lập của ông, bởi ngay sau khi thắng trận họ đã bị kiệt sức vì chiến tranh. 

    Trong khối Đồng minh phương Tây, các nước thục dân như Anh, Pháp và cả Hà Lan - sẽ nhất tề không thể nào khác được trong việc chống lại cuộc vận động chống chủ nghĩa thực dân của ông. Đối với những nước này thì chỉ có việc đẩy mạnh công cuộc đề kháng. Trong suy nghĩ của ông, nhất định là khi có cơ hội, Pháp sẽ đòi lại Đông Dương làm thuộc địa.

    Chỉ còn có Mỹ, một khả năng cuối cùng của ông"

    MÓN QUÀ TỪ TRÊN TRỜI RƠI XUỐNG.

    Ngày 29 tháng 7 năm 1941, Pháp và Nhật ký Hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, cho phép quân đội Nhật Bản sử dụng gần như toàn bộ các sân bay và cảng biển quan trọng tại Đông Dương và chính thức công nhận sự hiện diện của người Nhật tại khu vực.

    Điều này khiến người Mỹ phải thực hiện các phi vụ ném bom đánh phá các tuyến giao thông và tiếp tế của quân đội Nhật ở Đông Dương. 

    Thành công của các cuộc tiến công ném bom này phụ thuộc vào các báo cáo thời tiết chính xác từ bên trong Đông Dương, cũng như thông tin tình báo về các hoạt động chuyển quân, căn cứ và kho tàng của Nhật. Ngoài ra, một mạng lưới tình báo ở Đông Dương cũng rất cần thiết để giải cứu các phi công Mỹ khi máy bay bị bắn hạ hoặc rơi, che giấu họ khỏi quân Nhật, và nếu có thể, đưa họ ra khỏi Đông Dương trở về Trung Quốc.

    Ngày 11 tháng 11 năm 1944, Trung úy Rudolph C. "Rudy" Shaw, một phi công của Phi đoàn Tiêm kích 26, thuộc Liên đoàn Tiêm kích 51 của Không lực 14 Không lực Lục quân Hoa Kỳ, có căn cứ đặt tại vùng Hoa Nam, Trung Quốc, phải nhảy dù xuống địa phận Cao Bằng sau khi máy bay của ông gặp trục trặc về động cơ.

    Trung úy Shaw may mắn rơi đúng vào khu vực Việt Minh hoạt động và được chăm sóc chu đáo, vì Hồ Chí Minh nhận thấy đây là cơ hội ông sẽ trực tiếp gặp được người Mỹ, và Show sẽ là bằng chứng thể hiện sự hợp tác của Việt minh với Mỹ để chống Nhật.

    Mười ngày sau, Shaw nhận được lá thư từ Uỷ ban Trung ương Việt Minh chào mừng Shaw và thông báo "chúng tôi đã ra lệnh cho Căn cứ địa của chúng tôi tại Cao Bằng tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng của ngài và hộ tống ngài ra biên giới Bắc Kỳ – Trung Quốc", đồng thời đề nghị Shaw giúp xây dựng tình hữu nghị vững mạnh giữa Hoa Kỳ và Việt Minh.

    Hồ Chí Minh đã trực tiếp vượt đèo, lội suối và hiểm nguy bằng mọi cách giao trung úy Show cho người Mỹ đóng tại Côn Minh Trung Quốc.

    Đến tháng 12 năm 1944, Shaw được Hồ Chí Minh đưa về Côn Minh an toàn.

    Tại Côn Minh ông Hồ được đón tiếp bắt đầu từ trung úy Fenn một điệp viên trong AGAS.

    Trung uý Fenn đã kể lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của Fenn với ông Hồ: “Hồ đi cùng với một người trẻ tuổi là Phạm Văn Đồng... Hình như ông ta đã được gặp... Glass và De Sibour, nhưng chẳng thu được gì ở các vị này”. 

    Tôi đã hỏi xem ông Hồ muốn gì ở họ. Ông Hồ nói - chỉ có vấn đề công nhận nhóm của ông ta (gọi là Mặt trận Đồng minh hay Mặt trận Độc lập)”. 

    Ông Hồ đã gợi ý với Fenn rằng ông ta muốn được gặp tướng Chennault. 

    Fenn chỉ đồng ý thu xếp cuộc tiếp kiến nếu như ông Hồ chấp nhận không được đòi hỏi ở Chennault bất cứ điều gì: “việc xin tiếp tế cũng như hứa hẹn ủng hộ. Hồ tán thành”. 

    Ngày 29-3, Fenn, Bernard và Hồ Chí Minh được đưa đến cơ quan và giới thiệu với tướng Chennault, 

    Fenn kể lại:

    “Chennault rất cảm ơn ông Hồ về việc người phi công được cứu thoát. Ông Hồ đáp lại bao giờ ông cũng sung sướng được giúp đỡ người Mỹ và đặc biệt giúp tướng Chennault mà ông ta hết mực ca tụng. Họ chuyện trò về đội Hổ bay. 

    Chennault tỏ ra hài lòng về những câu chuyện mà ông Hồ biết chung quanh vấn đề này. 

    Họ bàn chuyện cứu các phi công bị nạn. Không ai nói gì đến người Pháp hoặc nói chuyện chính trị. 

    Tôi thở phào khi mọi người sắp từ biệt nhau. 

    Lúc đó, ông Hồ nói rằng ông muốn xin một vật kỷ niệm nhỏ... Và tất cả cái mà ông muốn chỉ là một cái ảnh của tướng Chennault... Đúng lúc... một tập ảnh 8x10 được đưa ra. “Hãy chọn lấy”, Chennault nói.

    Ông Hồ cầm lấy một chiếc ảnh và hỏi tướng Chennault có vui lòng cho xin chữ ký?' Chennault liền viết ở dưới “Bạn chân thành của anh. Claire L. Chennault”.

    Theo ý ông Hồ thì việc được tướng Chennault tiếp là hết sức quan trọng vì được coi như là một sự công nhận chính thức của Mỹ. 

    Nhưng tấm ảnh có chữ ký đã trở thành vật có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với ông khi ông rất cần một chứng cứ cụ thể để thuyết phục một số người Việt Nam quốc gia đa nghi rằng ông đã giành được sự ủng hộ của Mỹ. Đó chỉ là một mưu mẹo không có cơ sở nhưng cũng đã đạt được kết quả.

    TRỞ THÀNH ĐIỆP VIÊN CỦA OSS. 

    Tướng Chennault sau khi khi nghe báo cáo của trung úy Fenn về đề nghị của ông Hồ, ông phải hỏi cấp trên.

    Nhận được báo cáo của Chenault từ Côn Minh, Giám đốc Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ, Thiếu tướng William J. Donovan, đã đồng ý và cho phép OSS/GBT tiến hành nhiệm vụ tại Đông Dương và đồng ý cho hợp tác với Việt Minh của Hồ Chí Minh

    Trung úy OSS Charles Fenn được giao nhiệm vụ duy trì liên lạc từ Côn Minh tới Việt Minh. 

    Hồ Chí Minh được Fenn "tuyển" thành một đặc vụ trong mạng lưới tình báo của Fenn, có mật danh Lucius, và có nhiệm vụ cung cấp các thông tin tình báo ở Bắc Kỳ cho GBT và OSS thông qua Fenn.

    Khi Hồ Chí Minh về nước, OSS đã cử hai chuyên viên của tổ chức GBT – sĩ quan tình báo người Mỹ gốc Hoa tên Frankie Tan và chuyên gia về điện đài Mac Shin, đi theo. 

    Tháng 4 năm 1945, Hồ Chí Minh, Mac Shin và Frankie Tan được máy bay quân sự Mỹ đưa từ Côn Minh đến biên giới Trung Quốc – Việt Nam phía bắc Cao Bằng.

    Từ đó, cùng với các thành viên Việt Minh được chọn để huấn luyện tình báo và một nhóm nhân viên bảo vệ, họ bí mật vượt qua biên giới về Pắc Bó, căn cứ địa cách mạng. Sau đó, cả nhóm tiếp tục xuyên qua núi rừng Việt Bắc, tránh các đội tuần tra của quân Nhật, bám theo các cơ sở cách mạng, và tháng 5 năm 1945 tới căn cứ địa Tân Trào.

    HỢP TÁC VIỆT – MỸ.

    Ngày 16 tháng 5 năm 1945, một đội SO (Special Operation), có bí danh Con Nai, được thành lập dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Allison K. Thomas. Đội Con Nai bao gồm bảy thành viên:

    • Thiếu tá Allison K. Thomas – chỉ huy trưởng

    • Trung úy Rene J. Défourneaux – phó chỉ huy trưởng (dùng bí danh Raymond Douglas khi ở Việt Nam)

    • Thượng sĩ Nhất William F. Zielski – điện đài viên

    • Trung sĩ Tham mưu Lawrence R. Vogt – chuyên viên vũ khí

    • Trung sĩ Aaron Squires – nhiếp ảnh gia chiến trường

    • Binh nhất Henry A. Prunier – thông dịch viên tiếng Việt

    • Binh nhất Paul Hoagland – quân y

    Nhiệm vụ hàng đầu của Đội Nai là ngăn chặn các tuyến liên lạc của Nhật, đặc biệt là đường sắt và hệ thống đường bộ của Pháp trong khu vực Hà Nội – Lạng Sơn. Nhiệm vụ thứ yếu là "hoạt động với du kích quân" và "báo hiệu mục tiêu cho lực lượng không quân". 

    Ngày 16 tháng 7, Thomas nhảy dù xuống khu vực lân cận làng Tân Trào, Kim Lũng cùng hai thành viên đầu tiên của Đội Nai là Binh nhất Henry Prunier và Thượng sĩ William Zielski. Nhảy dù cùng với các thành viên Đội Nai là ba phái viên người Pháp – một sĩ quan cấp Trung úy tên là Montfort, và hai "đại diện" của quân đội Pháp, Trung sĩ Logos, một người Pháp lai Á và Trung sĩ Phác, một người Pháp gốc Việt. 

    Buổi sáng ngày 16 tháng 7 năm 1945, sáu thành viên Đội Con Nai lên một chiếc máy bay C-47 Dakota, nhưng khi tới nơi viên phi công không thể nhìn thấy những chiếc khăn trắng làm ám hiệu cho biết mặt đất bên dưới là khu vực an toàn. Cuối cùng, Thomas và những thành viên khác đều đánh liều nhảy xuống. 

    Tới mặt đất, trong khi đang thu xếp dù, họ nhìn thấy vài chục người tiến đến, không rõ là người Trung Quốc hay Việt Nam. Đa số là các thiếu niên, ngoại trừ một người thấp hơn, mặc áo vải lanh màu trắng, đi giày đen, đội mũ phớt màu đen, được mọi người gọi là "Anh Văn." Sau này các thành viên Nhóm Con Nai mới được rằng biết tên thật của ông là Võ Nguyên Giáp. 

    Trong khi người Mỹ được đối xử tử tế thì những người Pháp đi cùng đoàn lại không được như vậy.

    Dù được cảnh báo trước về "mối căm thù của Việt Minh với người Pháp", Thomas vẫn chấp nhận cho người Pháp nhảy dù cùng đội của ông xuống Tân Trào. 

    Khi Đội Nai vừa chạm đất, ba người Pháp đã nhanh chóng bị phát hiện. 

    Montfort bị một cán bộ Việt Minh, người đã phục vụ dưới quyền anh ta trong quân đội thuộc địa Pháp, nhận ra; 

    Phác bị nhận diện trước tiên như một người ủng hộ Pháp và sau đó là "thành viên của một đảng thân Tàu, Việt Nam Quốc dân Đảng". 

    Do đó, khi Thomas, Prunier và Zielski được hộ tống qua lối đi có mái vòm bằng tre thì ba người kia bị Việt Minh quây chặt, buộc Frank Tan phải can thiệp.

    Tuy Hồ Chí Minh nói thông thạo tiếng Pháp, nhưng ông không chấp nhận nói ngôn ngữ này, thay vào đó chỉ nói chuyện với các thành viên Con Nai bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Do Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp tỏ sự không tin tưởng các sĩ quan người Pháp và người Pháp gốc Việt trong nhóm, Thomas quyết định cho ba người rời khỏi đội của ông. Ngày 30 tháng 7, Montfort, Phác và Logos rời Tân Trào và trà trộn vào một nhóm người Pháp tị nạn về Tam Đảo để được đưa về Trung Quốc. 

    Ngày 29 tháng 7, đợt thả quân bổ sung thứ hai được tiến hành, bao gồm Trung úy Rene Defourneaux, Trung sĩ Tham mưu Lawrence Vogt, Trung sĩ Aaron Squires, Binh nhất quân y Paul Hoagland. 

    Lần này Hồ Chí Minh không thể có mặt để chào đón họ vì ông đang mắc những căn bệnh nhiệt đới như lỵ và sốt rét, nhưng ông vẫn cố gắng tranh thủ sự kiện họ đến nơi. Nằm trên giường bệnh, ông đề nghị nhân dân địa phương đến khoảng rừng thưa và chờ đợi những người Mỹ "rơi từ trên trời xuống".

    Khi các thành viên Đội Nai tiếp đất an toàn, họ được Tan, Phelan, Zielski và Võ Nguyên Giáp, chào đón. Không một ai bị thương, và những người Mỹ một lần nữa lại được hộ tống đi trên lối đi dưới mái vòm tre có khẩu hiệu "Chào đón những người bạn Mỹ của chúng ta". Cả đội không được gặp Thomas và Prunier cho tới đêm hôm sau; hai người này lúc đó đi trinh sát vị trí phòng thủ của Nhật tại Chợ Chu, nơi Thomas muốn lập kế hoạch tấn công nhưng chiến tranh đã kết thúc trước khi ông có cơ hội làm điều đó.

    Một đội SO thứ hai, mang bí danh Con Mèo (Cat Team), bao gồm ba thành viên: Đại úy Charles M. Holland, Trung sĩ John Burrowes và điện đài viên – Trung sĩ John L. Stoyka. Họ nhảy dù xuống khu trại của Việt Minh tại Tân Trào vào ngày 29 tháng 7 cùng với đợt đổ quân thứ hai của Đội Nai. Do có nhiệm vụ riêng biệt với Đội Con Nai, nên sau cuộc gặp gỡ với các cán bộ Việt Minh, họ lập tức di chuyển vào rừng, lập trại riêng và thực hiện nhiệm vụ của mình.

    Nhóm Con Mèo bị quân Nhật bắt sống vào giữa tháng 8 năm 1945. Stoyka, vốn là một cựu binh từng hoạt động ở sau phòng tuyến quân đội Đức Quốc Xã tại Pháp, đã trốn thoát được. Những người dân làng Việt Nam đã cứu giúp anh và đưa anh về trại của Đội Con Nai. Holland và Burrowes may mắn sống sót qua chiến tranh và được người Nhật thả tự do tại Hà Nội vào ngày 31 tháng 8 năm 1945. Tại đó, họ được Hồ Chí Minh đã chào đón nồng nhiệt với tư cách là những người đại diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam

    HỒ CHÍ MINH ĐƯỢC NGƯỜI MỸ CỨU SỐNG. 

    Trong những ngày đầu ở doanh trại, các thành viên mới của Đội Nai đã gặp gỡ nhiều cán bộ Việt Minh và một vài người dân ở khu vực xung quanh. 

    Tuy nhiên, một người đáng quan tâm là Hồ Chí Minh thì lại vắng mặt. 

    Hôm cả đội đổ bộ, Võ Nguyên Giáp đã xin lỗi vì sự vắng mặt của Hồ Chí Minh, ông nói với những người Mỹ mới đến là "chỉ huy" của họ bị ốm. 

    Đến ngày 3 tháng 8, Hồ Chí Minh vẫn không xuất hiện. Một vài thành viên trong đội, gồm Défourneaux và Paul Hoagland, quyết định đi vào ngôi làng gần đó để gặp Hồ Chí Minh và xem ông có cần giúp đỡ gì không. 

    Khác với mô tả của những sĩ quan tình báo Pháp về người đàn ông "tàn nhẫn" và "nguy hiểm", các thành viên Đội Nai rất ngạc nhiên về diện mạo của Hồ Chí Minh. Thay vì một con người gớm guốc, họ chỉ thấy dường như đây là một người ốm yếu, gầy dơ xương đang lơ lửng gần cái chết. Nhờ sự cứu chữa của Hoagland, Hồ Chí Minh đã qua cơn nguy kịch sau khoảng mười ngày, và có thể đứng lên đi lại bình thường. 

    MỸ CUNG CẤP VŨ KHÍ VÀ HUẤN LUYỆN CHO VIỆT MINH.

    Trong sáu ngày đầu tháng 8, Việt Minh và người Mỹ cùng nhau dựng trại huấn luyện. Trong khi người Việt tập trung dựng "những toà nhà thường không nhiều hơn bốn bức tường, một mái tranh và một cái nền", thì người Mỹ tập trung vào nội thất của ngôi nhà mới. 

    Họ làm vội những chiếc giường ngủ, bàn ghế và vách ngăn. Trong vòng một tuần, trại huấn luyện gồm ba doanh trại dành cho bộ đội Việt Minh, một doanh trại dành cho lính OSS, một phòng họp, một nhà bếp, một kho hàng, một trạm xá và trụ sở liên lạc, một trường bắn rộng khoảng 140 m², và một khu vực huấn luyện ngoài trời.

    Cuối bãi huấn luyện có một cây cao được dùng làm cột treo cờ Việt Minh. Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn người trong các đơn vị Giải phóng quân để tổ chức một đại đội gọi là Bộ đội Việt – Mỹ. Đơn vị này do Đàm Quang Trung làm Đại đội trưởng, Thiếu tá Thomas là Tham mưu trưởng, quân số của đại đội khoảng 110-200 người. 

    Trong thời gian ở tại chiến khu Tân Trào, các thành viên toán Con Nai tập trung huấn luyện cho đại đội Việt – Mỹ sử dụng vũ khí và chiến thuật du kích. Ngoại trừ Zielski làm nhiệm vụ liên lạc điện đài, tất cả các thành viên của Đội Nai đều tham gia huấn luyện cho Việt Minh. Thomas đã mang theo những cuốn giáo trình huấn luyện của quân đội Hoa Kỳ về cách sử dụng vũ khí Mỹ và đợt huấn luyện bắt đầu ngày 9 tháng 8 – ba ngày sau vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima.

    Không hề hay biết về sự kiện trên, Đội Nai tiếp tục huấn luyện cho Việt Minh để chuẩn bị cho cuộc chiến chống Nhật. Bộ đội Việt Minh được huấn luyện cách sử dụng súng M1 Garand, M1 Carbine, M1928/M1/M1A1 Thompson, súng chống tăng M9 Bazooka, và súng máy các loại. Chương trình huấn luyện gồm phép đạc tam giác, tập bắn, vệ sinh vũ khí, và cách sử dụng súng cối và lựu đạn. 

    Từ ngày 10 tháng 8, ba chuyến máy bay vận tải C-47 Dakota đã thả nhiều loại vũ khí, trang thiết bị và đồ y tế cho lực lượng tại Tân Trào. 

    Ước tính người Mỹ đã thả một khẩu đại liên, hai súng cối M2 60 mm, bốn súng chống tăng M9 Bazooka, tám súng máy Bren, 20 tiểu liên Thompson, 60 súng trường M1903 Springfield, 60 súng M1 Carbine, 20 súng ngắn Colt, một số ống nhòm và các tài liệu huấn luyện của Lục quân Hoa Kỳ về chiến tranh du kích. 

    Ngoài ra còn một số vũ khí được đưa vào bằng đường bộ cùng Frankie Tan và Mac Shin trước đó. 

    Tổng thời gian nhóm OSS dành để huấn luyện người Việt chỉ kéo dài ít tuần trong tháng 7 và tháng 8. Ngoài Võ Nguyên Giáp, nhóm còn huấn luyện kĩ năng chỉ huy cho ít nhất hai chỉ huy quân sự cấp cao khác, trong đó có Đàm Quang Trung, Hoàng Văn Thái và Vũ Lập. Trang thiết bị được thả dù xuống Việt Bắc vào ba vị trí thả đồ tiếp tế của Đội Nai, kết hợp với những loại vũ khí nhẹ do Việt Minh chế tạo tại những nhà máy quân khí đơn sơ của họ trong rừng đã tạo thành một đội quân được trang bị vũ khí đầy đủ. 

    Henry Prunier đã nhận xét "Đây là một nhóm được tinh tuyển từ nhiều nơi khác nhau tại Việt Nam. Họ hoàn toàn không phải là những người nông dân tầm thường". 

     (PHẦN 2).

    CÁO MƯỢN OAI HÙM.

    Tháng 3/1945 Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, quân Pháp ở Đông Dương một bộ phận chạy sang Trung Quốc, phần còn lại bị Nhật bắt.

    Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, dựng lên nhà nước “Đế quốc Việt Nam” do Bảo Đại là Quốc trưởng, và Trần Trọng Kim làm thủ tướng.

    Ngày 14/8/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, để lại một khoảng trống quyền lực tại Đông Dương, khi chính phủ Trần Trọng Kim thực chất không có bộ máy nhà nước cai quản vì mới thành lập, Còn người Nhật án binh bất động đợi quân Đồng Minh vào giải giáp. Người Pháp lại vắng mặt.

    Đây là thời cơ có một không hai để Hồ Chí Minh cướp chính quyền, những điều ông lo ngại nhất là không biết phản ứng của Nhật như thế nào? Vì Việt Minh không phải là một tổ chức được các nước đồng minh công nhận, rất có thể bị người Nhật đàn áp lấy cớ do chính phủ Bảo Đại, Trần Trọng Kim yêu cầu bảo vệ.

    Nhưng điều đó đã được giải tỏa khi nhóm Con nai của thiếu tá Thomas đang nằm trong căn cứ của Việt Minh.

    Hồ Chí Minh quyết định tiến hành một hội nghị mang tính toàn quốc mời các thành phần trên danh nghĩa chống Nhật về Tân Trào để bàn việc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền.

    Các đại biểu về đến Tân Trào nhìn thấy các binh sỹ của Việt Minh ăn mặc quân phục, mang vũ khí Mỹ, và thấy cả những người Mỹ trong thành phần quân đội của Việt Minh rất hào hứng và tin tưởng sự có mặt của người Mỹ, điều đã đánh tan nỗi sợ hãi về sự đàn áp của người Nhật.

    Họ trở về với một khí thế quyết tâm để tiến hành vùng lên tổng khởi nghĩa bằng gậy gộc, giáo mác…

    Báo chí lúc ấy cũng loan tin sự kiện này, nó tác động đến tư tưởng của các thành phần trong chính phủ Trần Trọng Kim và Bảo Đại, khiến họ không có những ý nghĩ về kêu gọi sự giúp đỡ của Nhật chống lại Việt Minh.

    Lãnh đạo Việt Minh rời Tân Trào về Hà Nội bằng hai con đường.

    Võ Nguyên Giáp cùng với nhóm Con Nai tiến về theo con đường Thái Nguyên với trận đánh mở đường. Sau thời gian hai bên nổ súng vào nhau, người Nhật bị thuyết phục khi biết có người Mỹ đang túc trực ở bên ngoài, người Nhật xin đầu hàng.

    Hồ Chí Minh theo con đường bí mật qua Phúc Yên về xã Phú Thượng – Từ Liêm sau đó về ở 48 Phố Hàng Ngang, Hà Nội.

    Với sự hiện diện của nhóm Con Nai người Nhật không hề động binh và cuộc cướp chính quyền gần như trên toàn quốc không có máu đổ.

    Và trong suốt quá trình Hồ Chí Minh ở Hà Nội ngoài những người Mỹ mà ông tiếp xúc đó là nhóm Con Nai, và thiếu tá Patti người được cho là có chức vụ cao nhất của Mỹ tại Việt Nam lúc đó ông không hề có sự tiếp xúc và sự công nhận nào từ bên ngoài, cho đến khi ông đọc bản tuyên ngôn độc lập và bắt đầu có sự hiện diện của người Trung Quốc đến giải giáp người Nhật.

    NGƯỜI BẠN TRI KỶ.

    Patti đến Hà Nội theo một nhiệm vụ được giao là kiểm soát, và lập kế hoạch để đưa những người Mỹ và đồng minh về nước sau chiến tranh và có thể những nhiệm vụ khác vì Patti là một thiếu tá tình báo của OSS.

    Tại hội nghị Posdam việc giải giáp người Nhật tại Đông Dương được các lãnh đạo Mỹ, Anh, Pháp giao cho quân đội Tưởng Giới Thạch. Điều này làm Pháp rất bức bối khó chịu.

    Tướng Charles de Gaulle, thủ tướng Anh Churchill đã đặt vấn đề các nước thuộc địa cần được giữ nguyên trạng sau thế chiến thứ hai với tổng thống Mỹ Roosevelt, nhưng Roosevelt phản đối và muốn sự áp bức, bóc lột tại thuộc địa chấm dứt và trao trả độc lập các quốc gia này, trong đó có Đông Dương.

    Người Pháp rất sốt ruột khi lo ngại người Trung quốc với danh nghĩa giải giáp Nhật ở Đông Dương sẽ đặt một chính phủ thân Trung Quốc và cướp mất thuộc địa của họ đã chỉ đạo Jean Sainteny tiếp cận với Patti để đặt chân lên Hà Nội trước khi quân Tưởng Giới Thạch vào.

    Mục đích của Jean Sainteny đến Hà Nội để tiếp cận người Nhật, yêu cầu người Nhật thả các tù binh Pháp và trang bị vũ khí cho họ, với mục đích có một lực lượng vũ trang ngăn chặn các hoạt động của các tổ chức chống Pháp.

    Patti biết được âm mưu này, và nhiệm vụ của ông ta là ngăn chặn không cho người Pháp quay lại Đông Dương, mặc dù đã rất nể Jean Sainteny cho cùng bay sang Hà Nội với danh nghĩa bảo vệ công dân Pháp tại đây, nhưng Patti đã cảnh báo người Nhật không được có bất kỳ quan hệ nào với Jean Sainteny.

    Đồng thời Patti cũng nói điều này với Hồ Chí Minh và Hồ Chí Minh đã tìm cách cô lập Jean Sainteny bằng các thủ đoạn tinh vi, từ chối không tiếp xúc với Jean Sainteny.

    Điều này có lợi cho chính phủ Hồ Chí Minh trong thời gian ban đầu có thể ổn định xây dựng chính quyền non trẻ khi không bị các mối quan hệ phức tạp diễn ra.

    Hồ Chí Minh coi Patti là bạn và qua Patti ông nhận được nhiều thông tin quý giá về tình hình quốc tế, ngay cả đến soạn thảo Tuyên Ngôn độc lập ông cũng cho Patti xem và góp ý.

    Các cuộc gặp gỡ của Patti với Hồ Chí Minh cũng đem lại cho Hồ Chí Minh có vị thế trước người Trung quốc và người Pháp, khi họ bán tin, bán nghi Hồ Chí Minh có sự ủng hộ của người Mỹ.

    Nhưng tiếc rằng, sự ra đi của tổng thống Roosevelt và thay vào đó Truman lên làm tổng thống Mỹ đã làm chính trường Việt Nam đảo lộn, khi Truman đồng ý với việc người Pháp quay trở lại.

    KẾT LUẬN:

    Dù Lịch sử sau này có phán quyết thế nào đi nữa, ngày độc lập của Việt Nam thành công không thể không nhắc đến vai trò của người Mỹ trong những sự kiện đã được nêu ra trong bài viết này. Nó có thể là cơ sở cho quan hệ Việt Mỹ qua nhiều bước thăng trầm có thể hàn gắn bằng những hành động biết ơn một cách chân thành, cởi mở.

    https://www.facebook.com/anh.quoc.194970


    Không có nhận xét nào