<script async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-1003061829250190"
crossorigin="anonymous"></script>Gồm 3 bài
Hoàng Hải Vân
18/10/2025
1-NGẬP KINH NIÊN, VÌ
SAO ?
------
Tình trạng ngập nước ở TP.HCM diễn ra từ lâu nhưng mọi giải
pháp chống ngập đều không hiệu quả, cho nên mới có câu 'càng chống ngập càng bị
ngập'. Không biết rõ những nguyên nhân để có giải pháp tổng thể thì không chống
ngập được. Dùng 'tư duy nhiệm kỳ' để chống ngập cũng không chống ngập được.
------
Anh bạn tôi, một chuyên gia về ô tô và môi trường làm việc ở
Đức mấy chục năm, nói với tôi rằng ở Đức khi bạn làm đường trong sân vườn để ô
tô chạy vào nhà, nếu đoạn đường đó chỉ đổ bê tông theo vệt bánh xe thì thuế của
bạn sẽ được giảm so với đổ bê tông kín cả con đường.
Ý của anh ấy là, chính phủ Đức khuyến khích các hộ gia đình
tăng diện tích cho nước mưa thấm tự nhiên xuống đất để chống ngập. Mỗi hộ dân
phải nộp một khoản "phí thoát nước mưa", khoảng 1,5 - 2 Euro/m2/năm
(tùy thành phố) cho phần diện tích không thấm nước mưa (như bê tông và mái nhà)
trong khu nhà của mình.
Diện tích bê tông trong sân vườn càng ít thì phí càng thấp.
Đức còn có chính sách khuyến khích dùng nước mưa, nếu ngoài nước máy bạn làm
thêm bể chứa nước mưa để tưới cây hoặc giặt rửa thì nhà nước cũng sẽ hỗ trợ chi
phí làm bể chứa hoặc giảm đơn giá nước máy trong hóa đơn hoặc cả hai.
Không chỉ ở Đức, các nước như Mỹ, Anh, Úc, Singapore, EU và
nhiều quốc gia khác cũng áp dụng các chính sách khuyến khích bằng giảm thuế,
phí và hỗ trợ tương tự để giảm thiểu tình trạng bê tông hóa trong xây dựng.
Đó là các chính sách khuyến khích ngoài quy định bắt buộc,
không những đối với các dự án nhà ở mà nhà dân riêng lẻ ở đô thị cũng phải dành
một tỷ lệ tối thiểu (20 - 30% hoặc hơn, tùy quốc gia) cho bề mặt thấm nước mưa,
ai vi phạm sẽ bị từ chối cấp phép hoặc bị phạt nặng.
Ở những nước nói trên và phần lớn những nước phát triển, hiếm
thấy những căn nhà liền kề ở các đô thị lớn không có diện tích thấm nước mưa tự
nhiên như ở nước ta; nếu có ở một số nơi cũng chỉ là những căn nhà cũ và được cải
tạo dần theo quy định mới, một số nước như Singapore thì hầu như không có.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHÍNH
Thứ nhất. Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh kéo theo bê tông
hóa tràn lan. Tôi dẫn câu chuyện làm cái đường ô tô trong vườn nhà ở Đức để thấy
các nước người ta cẩn trọng như thế nào đối với vấn đề bê tông hóa.
TP.HCM (cũng như cả nước) không những không có chính sách gì
để khuyến khích giảm bê tông hóa như "thông lệ quốc tế" nói ở trên mà
trong một thời gian dài còn không có những quy chuẩn nào để giới hạn bê tông
hóa.
Từ năm 2006 trở lại đây, Chính phủ và ngành xây dựng mới có
những quy định dành khoảng 20 - 30% cho diện tích thấm nước tự nhiên (bao gồm
cây xanh, thảm cỏ, hồ điều hòa…) đối với dự án khu đô thị và dự án nhà ở.
Tuy nhiên, nhà dân riêng lẻ không bị quy định này chi phối.
Do đó, tình trạng bê tông hóa ở các khu đô thị và khu dân cư xây dựng trước năm
2006 và người dân tự bê tông hóa ngôi nhà của mình hiện nay vẫn không bị thuế
má hay phạt vạ gì. Tình trạng này cộng với việc thu hẹp đất nông nghiệp không
được tính toán đã khiến tình trạng ngập ngày càng gia tăng.
Thứ hai. Hệ thống kênh rạch và hồ tự nhiên bị san lấp vô tội
vạ (cái thì chính quyền làm, cái thì người dân lấn chiếm). Theo ước tính sơ bộ,
từ năm 1975 đến nay có hơn 100 kênh rạch bị xóa sổ, đó là chưa tính các kênh rạch
bị lấn chiếm thu hẹp và hàng chục hồ tự nhiên cũng bị xóa sổ theo.
Cùng với hệ thống kênh rạch, những hồ tự nhiên này giữ vai
trò là hồ điều hòa vừa tích nước trong mùa mưa cho nước thấm tự nhiên xuống đất,
giảm tải cho hệ thống cống thoát nước, vừa phục vụ tưới tiêu trong mùa khô.
Thành phố cũng đã có nỗ lực ngăn chặn việc san lấp, nhưng
khôi phục lại toàn bộ hệ thống kênh rạch và hồ điều hòa tự nhiên này gần như là
không thể.
Thứ ba. Nước ngầm ở thành phố bị khai thác quá mức khiến cho
mực nước ngầm giảm kéo theo độ cao mặt bằng xây dựng giảm, là một trong những
nguyên nhân gia tăng ngập nước.
Theo nhiều quan trắc, từ năm 1990 đến nay tốc độ sụt lún
trung bình 2 - 3 cm, mức cao nhất khoảng 6 cm/năm, những khu vực tập trung như
các công trình thương mại, tốc độ lún có nơi lên tới khoảng 7 - 8 cm/năm.
Vào năm 2018, thành phố đặt mục tiêu giảm khai thác nước ngầm
từ hơn 716.000 m3/ngày của năm này xuống còn 100.000 m3/ngày vào năm 2025. Vào
đầu năm 2025, UBND thành phố đã "nới lỏng" mục tiêu lên 255.000
m3/ngày so với 100.000 m3/ngày đã đề ra trước đây.
Tuy tình trạng sụt lún có góp phần làm gia tăng ngập, nhưng
khai thác nước ngầm không phải là nguyên nhân duy nhất gây sụt lún, nó còn do sự
biến đổi địa mạo không xuất phát từ sự can thiệp của con người.
Thứ tư. Hệ thống thoát nước của TP.HCM lạc hậu, chắp vá,
không đồng bộ, không theo kịp với tốc độ phát triển của thành phố. Hệ thống này
được xây từ thời Pháp thuộc, dù dân số gia tăng nhưng đến đầu thế kỷ 20 cũng chỉ
hơn 200.000 người. Đến năm 1945 cũng mới có nửa triệu người, đến trước 1975 có
khoảng 3 triệu.
Sau khi đất nước thống nhất, Sài Gòn - Gia Định đổi tên là
TP.HCM với dân số khoảng 3,5 triệu. Đến nay (trước khi sáp nhập) dân số đã lên
9,97 triệu. Từ sau khi đất nước thống nhất, chỉ tính từ 1990 đến nay nhà nước
đã đầu tư hơn 50.000 tỉ đồng để cải tạo, nâng cấp, làm mới hệ thống thoát nước
nhưng căn bản vẫn chắp vá, một số hệ thống đã làm mới vẫn lạc hậu, không theo kịp
tốc độ gia tăng dân số và sự phát triển của thành phố.
Thứ năm. Là vấn đề "triều cường". Từ 4 nguyên nhân
nói trên, hễ có mưa lớn mà có triều cường thì thành phố bị ngập, thậm chí chỉ một
cơn mưa cũng gây ngập, đó là điều ai cũng biết.
Nhưng vấn đề "triều cường" ở TP.HCM và Nam bộ
không giống bất kỳ nơi nào trên thế giới. Áp dụng những cách chặn thủy triều
theo kinh nghiệm quốc tế (như Hà Lan hoặc Nhật Bản…) chắc chắn thất bại. Chúng
tôi sẽ nói kỹ về câu chuyện triều cường ở bài sau.
<script async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-1003061829250190"
crossorigin="anonymous"></script>
TÁC HẠI VÀ HỆ LỤY KHÔN LƯỜNG
Tình trạng ngập "kinh niên" ở nhiều nơi kéo dài tại
TP.HCM gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng về kinh tế, đời sống và sức khỏe người
dân. Ước tính tổng thiệt hại mỗi năm lên đến hàng chục ngàn tỉ đồng (1,3 tỉ
USD, theo Ngân hàng Thế giới).
Tình trạng này nếu không được cải thiện thì thiệt hại mỗi
năm có thể lên hàng chục tỉ USD trong tương lai không xa. Tất nhiên không ai có
thể định lượng được những tác hại kép của cơ sở hạ tầng, đường sá, công trình
công cộng bị hư hỏng, giao thông và logistics bị ách tắc cục bộ, sản xuất nông
nghiệp bị ảnh hưởng và những hệ lụy khác. Một trong những hệ lụy là vấn đề nước
thải.
Theo thông lệ quốc tế, mọi loại nước thải từ y tế đến công
nghiệp đến nước thải sinh hoạt đều phải được đưa vào hệ thống xử lý thành
"nước sạch" trước khi đưa ra môi trường. Tại TPHCM, từ năm 1990 trở về
trước nước thải đô thị hầu như đưa thẳng ra môi trường, không có xử lý gì, đến
nay thì nước thải từng bước được xử lý, thành phố đặt mục tiêu năm 2025 có 58%
nước thải được xử lý và năm 2030 con số này lên 88% (cho thành phố sau khi sáp
nhập).
Đó là bước tiến lớn về cải thiện môi trường, nhưng hiện vẫn
chỉ có chưa tới 60% nước thải được xử lý, còn hơn 40% xả trực tiếp ra môi trường.
Bởi vậy, nước ngập trong thành phố bao gồm cả nước thải chưa
được xử lý với vô số những chất độc hữu cơ và vô cơ cùng các mầm bệnh. Các bệnh
da liễu và đường tiêu hóa của người dân ở những khu vực bị ngập gia tăng, khiến
cho chi phí y tế tăng. Nước thải độc hại này còn ảnh hưởng đến việc sản xuất
rau củ quả, khiến cho những vùng bị ngập khó có thể sản xuất được "rau sạch"
đúng nghĩa. (còn tiếp, 2 kỳ nữa)
HOÀNG HẢI VÂN
(Bài đăng trên Thanh Niên, 18-10-2025)
Vấn đề chống ngập ở TPHCM
2-CÂU CHUYỆN THỦY TRIỀU
VÀ TIẾN SĨ HOÀNG NGỌC KỶ
Tình trạng ngập nước
ở TP.HCM
ẢNH: ĐỖ TRƯỜNG
Thủy triều là hiện tượng tự nhiên kể từ khi có trái đất và mặt
trăng. Nó có lợi hay có hại còn tùy vào khả năng hiểu biết để tận dụng hay né
tránh của con người. Chống thủy triều mà không tuân theo quy luật tự nhiên của
nó thì chỉ có thất bại.
NGĂN MẶN VÀ GIỮ NGỌT Ở ĐBSCL, PHẢI CHĂNG TA THÂN BẤT DO KỶ ?
Sông Mê Kông dài trên dưới 4.500 km bắt nguồn từ vùng núi
cao Tây Tạng chảy qua Trung Quốc, Lào, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và Việt
Nam, từ Việt Nam đổ ra Biển Đông. Việt Nam gọi nó là Cửu Long giang.
Như tên gọi của nó, Cửu Long giang có 9 cửa (trong thực tế
còn 8 cửa), với tổng chiều rộng gấp khoảng 15 lần chiều rộng sông Mê Kông đoạn
từ cao nguyên chảy xuống đồng bằng. Vì sao các cửa sông lại rộng "đột biến"
so với dòng sông? Ấy là do khi nước sông đổ ra biển thường bị thủy triều đẩy
ngược lên và tạo xâm thực ngang khi triều xuống.
Từ bao đời nay, những cơn lũ ở ĐBSCL thường kéo dài là do nước
sông bị thủy triều dội ngược nên chậm đổ ra biển, nhưng đồng bào ta vẫn có thể
thích nghi "sống chung với lũ".
Mỗi một trận lũ như vậy đồng bằng được phù sa tiếp tục bồi đắp.
Đối với hiện tượng đồng bằng bị xâm nhập mặn, từ bao đời nay cũng không thành vấn
đề gì. Đồng bào ta vẫn thích nghi và khai thác những lợi ích từ những vùng ngập
mặn. Không hiểu thủy triều mà làm khôn chống mặn mới gây họa.
Giờ thì tình trạng ngập mặn đã xâm nhập sâu, có lúc sâu đến
100 km vào đồng bằng. Lũ ít đi, phù sa bồi đắp cũng ít đi. Thiệt hại không biết
bao nhiêu mà kể. Vấn đề của ĐBSCL không phải do biến đổi khí hậu đột ngột gì,
mà chủ yếu là do hàng trăm cái đập thủy điện lớn nhỏ từ thượng nguồn trở xuống
của Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar. Mỗi nước chặn một hoặc nhiều
khúc sông, chặn nhiều nhất là Trung Quốc.
<script async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-1003061829250190"
crossorigin="anonymous"></script>
Nếu như mấy quốc gia trên kia không chịu xả nước thì nước mặn
xâm nhập sâu hơn, rộng hơn và nghiêm trọng hơn ở ĐBSCL. Nếu như mấy quốc gia
trên kia đồng loạt xả nước thì ĐBSCL sẽ bó tay với những cơn đại hồng thủy.
Trong thực tế, từ năm 2016 đến nay, Việt Nam ít nhất 3 lần gửi
công hàm hoặc thông qua Ủy hội sông Mê Kông, đề nghị phía Trung Quốc hỗ trợ
tăng xả nước từ những đập thủy điện của họ trên thượng nguồn sông Mê Kông để
giúp ĐBSCL chống hạn và ngăn mặn.
Nhìn chung là phía Trung Quốc "sẵn sàng xả nước"
như họ tuyên bố, nhưng không phải bao giờ họ cũng đáp ứng kịp với đề nghị của
ta mà ta phải chờ họ "xếp lịch" hoặc "có thời gian bàn bạc dể
đưa ra quyết định".
Trước thực tế đó, gần như toàn bộ các công trình ngăn mặn,
giữ nước ngọt và chống lũ ở ĐBSCL 100 năm qua trở nên kém hiệu quả, một số trở
thành vô dụng. Phải có một chương trình hợp tác đa quốc gia trong khai thác hợp
lý và bảo vệ sông Mê Kông.
Nhưng một chương trình như vậy, nếu có, cũng rất khó công bằng
đối với nước nhỏ, nhất là một nước ở cuối con sông như nước ta, nếu như không
trả giá bằng những thỏa hiệp khác. Đối với vấn đề ĐBSCL, ta đang trở thành một
quốc gia thân bất do kỷ chăng?
GIẢI PHÁP CỦA NHÀ KHOA HỌC LÃO THÀNH
Trả lời câu hỏi, ta có phải là quốc gia thân bất do kỷ (về vấn
đề ĐBSCL) hay không? Có một nhà khoa học lão thành nói dứt khoát: Không! Ông là
tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ.
Tiến sĩ Kỷ từng là giám đốc kiêm chủ nhiệm nhiều chương
trình nghiên cứu đo vẽ bản đồ địa chất Đệ Tứ đồng bằng Việt Nam, là chủ biên
nhiều công trình địa chất và khoáng sản ở các tỉnh phía bắc và Nam bộ, là tác
giả của các cuốn sách: Loess - nguồn gốc gió ở Đông Nam Á, Địa chất và môi trường
đệ tứ Việt Nam, An ninh môi trường: Hiểm họa và phương pháp phòng chống…
Ông còn là đại diện Việt Nam tham gia nghiên cứu các đề tài
địa chất Đệ Tứ khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Chương trình Liên kết
địa chất quốc tế (IGCP 218 và IGCP296) và đề tài Khí hậu trong quá khứ CLIP của
UNESCO.
Ông là đồng tác giả được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
khoa học và công nghệ với vụm công trình "Bản đồ địa chất Việt Nam tỷ lệ
1/500.000 và Bản đồ khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1/500.000".
Biến đổi khí hậu là có thật, nhưng biến đổi khí hậu diễn ra
từ khi có trái đất. Tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ cùng đồng sự đã có công trình nghiên
cứu về cổ địa chất cho thấy thời kỳ địa chất Đệ Tứ (khoảng 2 - 2,5 triệu năm
trước đến ngày nay), Việt Nam có 4 lần biển thoái và 4 lần biển tiến, hình
thành 8 tầng trầm tích nguồn gốc lục địa và biển đan xen chuyển tiếp với nhau.
Trong 4 lần biển tiến thì lần thứ 3 là biển tiến đột biến.
Thời điểm biển tiến đột biến có niên đại đo được là 4.115 năm cách ngày nay (có
sai số ± 50 năm). Nước biển dâng với biên độ 5,5 mét. Do mực nước giai đoạn cuối
của thời kỳ biển thoái trước đó là - 2 mét (âm 2 mét) so với mặt nước biển hiện
nay, nên mực nước do biển tiến đột biến thời kỳ này dâng lên 3,5 mét so với mặt
nước biển hiện nay.
Mực nước này duy trì ổn định kéo dài một khoảng thời gian là
1.015 năm (± 80 năm), đến cách đây 3.100 năm biển mới bắt đầu thoái. Sau khi
thoái đột biến rồi xuống dần đến cực tiểu vào thời gian cách đây 2.300 năm với
mực nước âm 6 mét so với mặt biển hiện nay, sau đó là thời kỳ biển tiến, tiến
mãi cho tới ngày nay.
Điều này có nghĩa là biển bắt đầu tiến từ 2.300 năm trước và
trong vòng 2.300 năm đã dâng thêm 6 mét, bình quân mỗi năm dâng thêm 2,6 mm và
đang tiếp tục dâng.
Dấu vết và niên đại của mực nước nói trên được khảo sát và
đo từ trầm tích và vách đá lộ thiên. Tình trạng biển thoái và biển tiến nói
trên là do tai biến địa cầu, không liên quan gì đến sự tác động của con người.
Những nghiên cứu của tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ, Báo Thanh Niên
đã đưa vào 2 loạt bài: "Dựng nước sau đại hồng thủy" và "Hoàng
thành Thăng Long, quá khứ và tương lai" đăng từ 15 năm trước.
Ông nói, ai cũng biết dòng sông chảy xuôi là do sức hút của
trái đất, còn thủy triều chảy ngược là do lực hấp dẫn của mặt trăng và một phần
của mặt trời.
Khi lực chảy của dòng sông và lực đẩy của thủy triều cân bằng
thì nước mặn không lên được. Vấn đề là tại sao trong mùa lũ nước sông chảy rất
mạnh nhưng thủy triều vẫn lên?
Đó là do các cửa sông quá rộng nên không ngăn được thủy triều.
Ông bảo ông quan sát kinh nghiệm dân gian, người ta tận dụng các nhánh sông và
đắp thành đập để giữ nước với cống thoát nước nhỏ, nước sông vẫn chảy qua những
cái cống đó nhưng thủy triều không lên được.
Đối với ĐBSCL, phương án ông đề xuất là dùng đập mở để điều
hòa dòng nước. Những cái đập mở này làm bằng xà lan (bê tông cốt thép rỗng) có
thể xê dịch dễ dàng, không cần phải xử lý nền móng tốn kém.
Hệ thống xà lan này bền lâu hơn nhiều so với những tấm thép.
Khi thủy triều lên, dùng sà lan thu hẹp cửa sông lại, để cho sức nước của chính
con sông ngăn thủy triều.
Khi thủy triều xuống, dùng xà lan điều tiết dòng chảy của
con sông. Khi lũ lụt, mở rộng cửa sông để thoát nước nhưng ở mức không để thủy
triều lên, muốn thoát nhanh hay thoát chậm tuỳ nhu cầu.
Khi hạn hán, thu hẹp cửa sông lại nhằm hạn chế dòng chảy để
giữ nước ngọt chống hạn. Nếu dùng biện pháp này, dù mấy quốc gia phía thượng
nguồn Mê Kông có đồng loạt chặn dòng hay đồng loạt xả nước thì nước ta vẫn
không bị ảnh hưởng. Thuyền bè vẫn qua lại bình thường, không cần có âu thuyền
gì cả.
Hệ thống đập mở không chỉ kiểm soát được thủy triều, giữ nước
ngọt, tăng phù sa cho đất mà còn có thể kiểm soát sâu bệnh đối với lúa và hoa
màu, ví dụ có thể cho triều dâng đột ngột và rút đột ngột để kiểm soát sâu bệnh.
Và tùy theo từng khu vực dựa vào mức độ chênh lệch của sông
và thủy triều, có thể kết hợp xây hệ thống phát điện năng trên đập mở, thu điện
năng mặt trời trên xà lan hay làm điện gió trên bờ đập.
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ đã xây dựng một công trình nghiên cứu
"Đập mở: Chặn triều và giữ nước sông" cùng các dự án thí điểm thực hiện
ở đồng bằng Nam bộ và dự án thí điểm tại TP.HCM. (còn tiếp)
HOÀNG HẢI VÂN
(Bài đăng trên Thanh Niên, 19-10-2025)
https://www.facebook.com/share/1GqDTmia7E/
Chống ngập nước ở
TP.HCM: Một giải pháp của tiến sĩ U.100 Hoàng Ngọc Kỷ
Hoàng Hải Vân
20/10/2025
Ngập nước ở TP.HCM có nhiều nguyên nhân, nên chống ngập phải
có giải pháp tổng thể. Nhưng ngập gắn với triều cường, nên giải pháp căn bản
trước hết là xử lý vấn đề thủy triều.
Như đã nói ở bài trước, nhằm thoát tình trạng "thân bất
do kỷ" của quốc gia chúng ta trong việc ngăn mặn giữ ngọt ở đồng bằng Nam
bộ, tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ đã đề xuất giải pháp trong công trình nghiên cứu Đập
mở: Chặn triều và giữ nước sông.
Số phận của một công trình khoa học
Năm 2016, tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ đã gửi công trình nghiên cứu
đến lãnh đạo TP.HCM. Người ta đã tổ chức hội thảo về giải pháp của ông. Sau đó
Trung tâm điều hành chống ngập nước của thành phố đã trả lời ông Kỷ,
khẳng định đề tài của ông là khả thi, nhưng chưa có số liệu tính toán kỹ thuật,
định mức đơn giá và chưa áp dụng trong thực tế nên họ đề nghị ông liên hệ với Sở
Khoa học - Công nghệ để "đăng ký đề tài". Nghĩa là công trình bị xếp
lại.
Công trình chống ngập ở ngã ba Cống (phường Thủ Dầu Một,
TP.HCM) hiện đã hoàn thành
ẢNH: ĐỖ TRƯỜNG
Tiếp đó, vào năm 2017, tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ đã gửi
công trình của mình đến Chính phủ. Văn phòng Chính phủ có công văn trả lời ông
là đã giao cho các bộ xem xét. Cả 3 bộ đều đã trả lời hoan nghênh ông và sẽ
giao cho các cơ quan liên quan nghiên cứu tiếp thu.
Vào năm 2018, công trình của ông đã được Cục Sở hữu trí tuệ
cấp bằng sáng chế độc quyền, được tặng thưởng Best inventor 2018 (trong cuộc
thi do Bộ Khoa học - Công nghệ Việt Nam và Cục Sở hữu trí tuệ Hàn Quốc phối hợp
tổ chức).
Rất may mắn là vào năm 2022, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn
Văn Nên đã nhiều lần gọi điện cho tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ để trao đổi về dự án của
ông. Bí thư Thành ủy còn cử chuyên gia trực tiếp đến làm việc với ông. Tiếp đó,
thành phố tổ chức hội thảo lấy ý kiến các chuyên gia và nhà khoa học.
Ngập trên quốc lộ 13, TP.HCM
ẢNH: ĐỖ TRƯỜNG
Kết quả là vào ngày 5.4.2023, UBND thành phố có công văn
giao cho Sở Khoa học - Công nghệ chủ trì phối hợp Sở NN - PTNT, Sở Xây dựng, Sở
Giao thông vận tải, các viện, trường, Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật thành
phố và tiến sĩ Kỷ tổ chức nghiên cứu thử nghiệm giải pháp của tiến sĩ Kỷ làm cơ
sở để "thí điểm và nhân rộng giải pháp kiểm soát triều tại TP.HCM và cả nước".
Tất nhiên công trình của tiến sĩ Kỷ là một giải pháp khoa học
cần có thử nghiệm và làm thí điểm, nên lãnh đạo TP.HCM chỉ đạo triển khai là
đúng hướng.
Nhưng không hiểu vì lý do gì mà thành phố vẫn chưa triển
khai nghiên cứu thử nghiệm, mặc dù tiến sĩ Kỷ đang thực hiện thiết kế nghiên cứu
thử nghiệm, nhưng ngay cả thiết kế nghiên cứu thử nghiệm cũng cần phải khảo sát
đo đạc thực địa, việc đó cần có tổ chức và phương tiện, chứ một ông già 90 tuổi
như ông sao có thể một mình làm được. Sau đó, như chúng ta đã biết, TP.HCM, Bà
Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương sáp nhập lại.
Giải pháp căn bản đối với TP.HCM
Hiện nay các phương án ngăn triều theo truyền thống trên thế
giới vô cùng tốn kém. Các dự án ở Hà Lan, Liên bang Nga và Nhật bản… chi phí rất
cao và thực hiện kéo dài rất nhiều năm. Các dự án đập ngăn triều truyền thống
đã, đang và sẽ thực hiện ở nước ta vừa tốn kém vừa không hiệu quả.
Đối với TP.HCM, tiến sĩ Kỷ đề xuất 2 phương án đập mở.
Phương án 1: dùng đập mở thu hẹp cửa sông ở 10 cửa. Phương án 2: dùng đập mở
thu hẹp 5 cửa, gồm cả cửa sông Sài Gòn và 4 cửa của sông Đồng Nai và sông Nhà
Bè (xem bản đồ phương án 2).
Phương án 2 dùng đập mở thu hẹp 5 cửa sông ở TP.HCM
ẢNH: H.H.V
Cả 2 phương án đều có tác dụng chống ngập ngang nhau, theo
ông là giải quyết căn bản tình trạng ngập do thủy triều trên diện rộng. Các
phương án của ông ước tính rẻ từ 10 đến 20 lần so với dùng đập kín truyền thống
vì dựa vào quy luật của thiên nhiên nên không cần xử lý nền móng bằng cấu kiện
kiên cố.
Với những kết quả nghiên cứu địa chất mà tiến sĩ Kỷ đã thực
hiện từ trước, ông hiểu rõ địa mạo của đồng bằng Việt Nam, đồng bằng Nam bộ nói
chung và TP.HCM nói riêng.
Ví dụ, do trầm tích qua những lần biển thoái và biển tiến, nền
đất ở cửa sông và dưới đáy sông rất yếu. Trong 4 lần biển thoái và 4 lần biển
tiến, lớp trầm tích có chiều sâu hàng mét sau lần biển tiến cuối cùng cách đây
2.300 năm, cộng với các lần biển thoái và biển tiến trước đó, lớp trầm tích có
chiều dày lên tới hàng chục mét, chủ yếu là đất yếu. Vì vậy, việc xử lý nền đất
để xây đập kín chắn thủy triều theo cách truyền thống là vô cùng tốn kém.
Tại Hà Lan, đập chắn triều sông Đông Schelde được xây dựng mất
10 năm (từ năm 1976 đến 1986). Tổng chi phí xây dựng tính theo thời giá hiện
nay vào khoảng 4,5 tỉ euro. Hay như đập chắn triều sông Thames chảy qua London
(Anh) được xây dựng trong 8 năm (từ năm 1974 đến 1982). Chắn một khúc sông chỉ
rộng 520 mét nhưng tổng chi phí xây dựng lên tới hơn 2 tỉ bảng Anh theo thời
giá hiện nay.
Những đập kín ngăn triều chống mặn truyền thống ở ĐBSCL rất
tốn kém nhưng không hiệu quả. Chẳng hạn như đập Ba Lai (Bến Tre cũ) với vốn đầu
tư hơn 1.200 tỉ đồng (theo thời giá hiện nay khoảng gần 2.000 tỉ đồng) nói là
ngăn mặn giữ ngọt phục vụ cho hơn 100.000 ha đất nông nghiệp nhưng đã ngăn dòng
chảy tự nhiên của sông Ba Lai, cửa sông bị bồi lấp, hệ sinh thái bị tổn hại
nghiêm trọng, mất môi trường sống của tôm cá di cư, một bộ phận dân được lợi
còn một bộ phận dân khác thì bị thiệt hại nặng (công trình này báo chí đã nói
nhiều).
Tệ hại nhất là âu thuyền Tắc Thủ (Cà Mau), cũng là dự án
ngăn mặn truyền thống, với tổng vốn 80 tỉ đồng (theo thời giá hiện nay khoảng
130 tỉ đồng) nhưng từ khi hoàn thành đến nay đã 20 năm vẫn chưa sử dụng một lần
nào.
Nó không chỉ vô dụng mà còn gây ách tắc giao thông, việc xử
lý còn rất tốn kém. Còn nhiều lắm, nhưng vẫn chưa thấy quan chức nào bị làm sao
về sự lãng phí này.
Ngập trên đường 30 Tháng 4 ở Bình Dương cũ hiện vẫn chưa có
giải pháp
ẢNH: ĐỖ TRƯỜNG
Đối với vấn đề nền móng, phương án của tiến sĩ Kỷ là chỉ sử
dụng cọc bê tông và tận dụng sự cân bằng giữa thủy triều và nước sông để chịu lực.
Các sà lan rỗng khi bơm nước vào thì chìm, khi hút nước ra thì nổi, có thể di dộng
dễ dàng mà không cần có điểm tựa chịu lực lớn, đơn giản là áp dụng nguyên lý
Archimedes.
Làm cho ứng suất của đập nhỏ hơn sức chịu đựng của nền và
phân bố đều, đó là nguyên lý chống lún. Điều khiển đập mở để có lưu tốc qua cổng
nhỏ hơn lưu tốc gây xói của đất nền, đó là nguyên lý chống xói…
Dự án "đập mở" cả đối với ĐBSCL và TP.HCM, nếu triển
khai thử nghiệm và thực hiện thì có chi phí thấp hơn nhiều so với đập truyền thống.
Đối với TP.HCM, ước tính chỉ đầu tư trên dưới 2.500 tỉ đồng.
Khi ông lập dự án, con trai ông nói đùa "ba lập dự án ít tiền người ta
không duyệt đâu".
Theo tiến sĩ Kỷ thì dự án đập mở không chỉ ngăn triều chống
ngập mà có công dụng rộng hơn nhiều, nó còn có tác dụng dùng thủy triều để làm
sạch kênh rạch, biến chúng thành những hồ tích nước tự nhiên phục vụ nông nghiệp,
phục vụ dân sinh và bảo vệ môi trường, nó còn góp phần phòng chống những hiểm họa
thiên tai như sóng thần.
Ông nói, những người dân ở vùng gần biển đều hiểu thủy triều.
Chính ông ngày xưa đã suýt chết trong cống, từ đó mới bắt đầu hiểu quy luật của
thủy triều.
Không phải cái gì thế giới làm cũng đáng cho Việt Nam học.
Có nhiều thứ Việt Nam làm được mà thế giới không làm được. Bản đồ địa chất Đệ Tứ
chỉ duy nhất Việt Nam có.
Còn tiến sĩ Kỷ, ông là một trong những người hiểu đất - nước
(đất và nước) của mình nhất. Giờ ông đã già yếu thân cô thế cô, không tiền
không của để làm "truyền thông" cho công việc của mình. TP.HCM sau
khi sáp nhập, ông muốn áp dụng thí điểm đập mở tại khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu
trước khi nhân rộng.
Không có nhận xét nào