Nguyễn Tuấn
25/11/2025
Bản gốc: https://defense.info/.../from-saigon-to-the-pentagon-hung...
Trước khi được Quốc hội Mĩ phê chuẩn là Thứ trưởng Hải Quân, Hùng Cao từng nói một câu nổi tiếng: "Nếu được phê chuẩn làm Thứ trưởng Hải quân, tôi sẽ xây dựng lực lượng Hải quân và Thủy quân Lục chiến mạnh và sát thương nhứt mà thế giới từng thấy.”
Bài báo dưới đây [1] hé lộ một chút về mục tiêu của chuyến đi thăm Việt Nam của Thứ trưởng Hùng Cao và ông sếp Pete Hegseth. Thấy hay hay, tôi nhờ chatGPT dịch và tôi biên tập lại cho văn vẻ Việt hơn [2] để chia sẻ với các bạn.
Hùng Cao giải thích rằng chiến lược của ông là mở rộng căn cứ Hải quân ở Guam ra toàn quần đảo Mariana, giúp gia tăng đáng kể diện tích khả dụng cho cái mà ông gọi “khu vực giao chiến phân tán” (a distributed engagement zone). Trong ý tưởng mới này, Hùng Cao xem Việt Nam (cùng với Nam Hàn, Nhật Bản, và Úc) là một móc xích quan trọng, đặc biệt là trước sự đe doạ của Tàu.
Bài báo còn mô tả Hùng Cao từ một thiếu nhi tị nạn vào năm 1975 nay là một quan chức cấp cao của Ngũ Giác Đài. Câu chuyện không chỉ là của riêng ông Hùng Cao, mà là của cả một dân tộc Việt Nam kiên cường và của mối quan hệ Mĩ–Việt đã sang trang mới.
Nghe nói trước khi được bổ nhiệm, một quan chức cao cấp trong Ngũ Giác Đài tỏ ra không ưa Hùng Cao và có những phát biểu khó nghe. Quan chức này lập tức bị sếp Pete Hegseth sa thải trước khi Hùng Cao bước vào Ngũ Giác Đài.
_________
https://defense.info/.../from-saigon-to-the-pentagon-hung...
Từ Sài Gòn đến Ngũ Giác Đài: Hành trình của Hùng Cao và sự chuyển đổi quốc phòng Thái Bình Dương
Chúng tôi có cơ hội gặp gỡ Thứ trưởng Hải quân Mĩ tuần trước tại văn phòng của ông để thảo luận về chuyến thăm Việt Nam gần đây cùng với Bộ trưởng Chiến tranh vụ, cũng như trọng tâm của ông đối với thách thức quốc phòng Guam.
Ngày 3/10/2025, Hùng Cao tuyên thệ nhậm chức Thứ trưởng Hải quân. Chỉ chưa đầy 3 tuần sau, vào ngày 21/10/2025, ông đã đến Guam với tư cách Quan chức Quốc phòng Cấp cao phụ trách Guam và Khối thịnh vượng chung quần đảo Bắc Mariana. Chuyến thăm thể hiện mức độ khẩn cấp và ưu tiên mà hòn đảo này đang nhận được với vai trò trung tâm và then chốt cho việc triển khai sức mạnh của Mĩ.
Mối liên hệ của Cao với khu vực này sâu sắc hơn rất nhiều so với chức danh chánh thức.
Năm 1975, 50 năm trước, khi mới 4 tuổi, ông là một thiếu nhi tị nạn rời Sài Gòn trong lúc chế độ VNCH sụp đổ. Gia đình ông tới đảo Guam. Thủ tục di trú được xử lí tại Guam trước khi đặt chân đến nước Mĩ.
Việc ông trở lại Việt Nam cùng Bộ trưởng Pete Hegseth vào ngày 2/11/2025 không chỉ là một chuyến công du ngoại giao, mà còn là một khoảnh khắc tròn đầy ý nghĩa trong quan hệ Mĩ-Việt. Đó cũng là một biểu tượng cho sự chuyển đổi lớn đang định hình lại cấu trúc an ninh Thái Bình Dương.
Cá nhân và chiến lược giao thoa
Tiểu sử của Hùng Cao là hiện thân của sự đan xen phức tạp giữa lịch sử di cư Mĩ và chánh sách quốc phòng đương đại. Sanh ra tại Việt Nam, ông rời bỏ đất nước khi còn nhỏ trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn năm 1975.
Đến Mĩ và bắt đầu một cuộc đời mới đã định hình quan điểm và sự nghiệp của ông. Hành trình từ một người tị nạn Việt Nam trở thành Đại tá Hải quân rồi Thứ trưởng trong Ngũ Giác Đài là một câu chuyện rất Mĩ, nhưng lại đặc biệt cộng hưởng trong bối cảnh địa chánh trị hiện nay.
Trước khi được bổ nhiệm làm Thứ trưởng, Cao có sự nghiệp quân sự xuất sắc trong lực lượng đặc nhiệm. Ông là một chuyên gia lặn biển sâu và sĩ quan tháo gỡ vật nổ (EOD). Ông từng tham chiến tại Iraq, Afghanistan và Somalia. Ông được đồng đội cũ kính nể vì khả năng lãnh đạo trong môi trường nguy hiểm cao độ, và luôn đặt sự an toàn của cấp dưới lên hàng đầu. Ông nghỉ hưu với quân hàm Đại tá (Captain O-6).
Với thế hệ người Mĩ từng trải qua chiến tranh Việt Nam, việc Hùng Cao thăng tiến đến vị trí này mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Một quan chức quốc phòng cấp cao gốc Việt đang góp phần định hình quan hệ an ninh song phương là dấu chấm hết thực sự cho một thời kì và mở ra một thời kì mới.
Ông là một người Mĩ gốc Việt và cũng là một trong những người Mĩ gốc Á nổi bật nhứt giữ chức vụ dân sự cao cấp trong Hải quân Mĩ. Sự hiện diện của ông tại Hà Nội cùng Bộ trưởng Hegseth đã được các quan chức Việt Nam đón nhận nồng nhiệt, điều khó tưởng tượng nổi chỉ vài thập niên trước và vẫn còn đáng kinh ngạc ngay cả ngày nay. Cuộc chiến từng chia rẽ hai dân tộc giờ đây đã nhường chỗ cho quan hệ đối tác thực dụng dựa trên lợi ích chung và mối lo ngại chung về ổn định khu vực.
An ninh hàng hải: Nền tảng mới của quan hệ Mĩ-Việt
Công việc trọng tâm của Hùng Cao tại Việt Nam là an ninh hàng hải, an toàn trên biển và cam kết chung của hai nước trong việc duy trì một Thái Bình Dương tự do và mở.
Đây không phải là ngoại giao trừu tượng. Việt Nam, giống như Phi Luật Tân, đã nhiều lần bị các lực lượng hải cảnh của Trung cộng phá phách. Các lực lượng này tỏ ra hung hăng nhắm vào tàu dân sự, bao gồm tàu cá và tàu thương mại hoạt động trong vùng biển mà Việt Nam coi là thuộc quyền hợp pháp của mình.
Các tàu hải cảnh của Tàu, bao gồm lực lượng dân binh biển, thường xuyên tấn công, quấy rối tàu cá Việt Nam ở Biển Đông, đặc biệt quanh khu vực Hoàng Sa và Trường Sa. Các vụ việc được ghi nhận bao gồm đánh đập ngư dân, dùng gậy sắt và vòi rồng, đâm va chìm tàu, tịch thu ngư cụ và hải sản, thậm chí bắt giữ ngư dân.
Những hành động này đã gây thương tích và thiệt hại kinh tế cho ngư dân Việt Nam. Những hành động đó là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của Trung cộng nhằm áp đặt yêu sách hàng hải bất chấp các vùng đặc quyền kinh tế được quốc tế công nhận.
Tại Hà Nội, mô hình gây hấn của Tàu đã trở nên báo động thực sự, và thúc đẩy mong muốn tăng cường năng lực giám sát, tuần tra và bảo vệ vùng biển của Việt Nam.
Mĩ đáp trả những mối lo này bằng việc chuyển giao năng lực cụ thể. Trong vài năm qua, Hoa Thạnh Đốn đã chuyển giao 3 tàu tuần duyên lớp Hamilton từ Lực lượng Tuần Duyên Mĩ cho Cảnh sát biển Việt Nam. Những chiếc tàu này được chỉnh sửa trước khi bàn giao để bảo đảm vẫn hoạt động hiệu quả sau khi loại biên.
Việc nâng cao nhận thức lãnh hải và năng lực tuần tra của Việt Nam đã tăng cường khả năng chung của các quốc gia trong khu vực trong việc chống lại sự cưỡng ép và duy trì tự do hàng hải, điều có lợi cho tất cả các quốc gia vùng Thái Bình Dương.
Hùng Cao nhấn mạnh rằng sự hợp tác này chính là cốt lõi của những gì Việt Nam và Mĩ đang cùng hướng tới: cả hai đều là các cường quốc Thái Bình Dương, cùng có lợi ích căn bản trong việc giữ cho Thái Bình Dương mở và tự do đối với vận tải thương mại, thương mại và hoạt động kinh tế hòa bình.
Cần hiểu rằng sự hợp tác an ninh ngày càng sâu sắc giữa Việt Nam và Mĩ vẫn diễn ra trong các giới hạn được xác định rõ ràng.
Lãnh đạo Việt Nam đã công bố nguyên tắc “Bốn Không” trong chánh sách đối ngoại và quốc phòng, nhằm duy trì tính tự chủ và cân bằng chiến lược giữa các cường quốc, đặc biệt giữa Mĩ và Tàu.
Chính sách “Bốn Không” gồm:
· Không tham gia liên minh quân sự;
· Không liên kết với nước này để chống nước kia;
· Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác;
· Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Các quan chức Việt Nam thường xuyên tái khẳng định cam kết này tại các diễn đàn khu vực như Đối thoại Shangri-La và trong Bạch thư Quốc phòng. Chánh sách này còn được gọi là “ngoại giao cây tre”, linh hoạt nhưng kiên cường giữa sự cạnh tranh của các nước lớn.
Dù Việt Nam có mối quan hệ ngày càng sâu sắc với Mĩ, Liên minh Âu châu, Nhật Bản, Úc, đồng thời duy trì quan hệ thực dụng với Tàu và Nga, “Bốn Không” vẫn là nền tảng.
Việc chuyển giao tàu lớp Hamilton là biểu tượng cho cách tiếp cận rộng lớn hơn: xây dựng năng lực cho các nước đối tác để nhân lên sức mạnh cho lợi ích Mĩ, đồng thời tôn trọng nhu cầu tự chủ của Việt Nam trong khi giải quyết các mối quan ngại an ninh chung.
Guam: Từ tam giác chiến lược đến trung tâm phân tán
Trong cuốn sách “Tái thiết sức mạnh quân sự Mĩ ở Thái Bình Dương: Chiến lược thế kỉ 21” (xuất bản vào năm 2013), chúng tôi đã đưa vào các đồ họa minh họa “tam giác chiến lược” (Hawaii – Guam – Nhật Bản) và “tứ giác chiến lược” (mở rộng thêm Úc và Nam Hàn). Đó là các căn cứ nền tảng để Mĩ triển khai sức mạnh quân sự khắp Thái Bình Dương.
Nếu hôm nay vẽ lại các đồ họa đó, chúng sẽ trông hoàn toàn khác. Sự thay đổi không phải là làm giảm tầm quan trọng của các địa điểm này, mà là sự tiến hóa trong cách thức vận hành sức mạnh quân sự Mĩ ở thế kỉ 21. Guam và khu vực xung quanh giờ đây gắn liền với xu hướng chuyển dịch sang các hoạt động hàng hải phân tán, triển khai chiến đấu linh hoạt và khái niệm Hoạt động Căn cứ Tiên tiến Viễn chinh (EABO) của Thủy quân Lục chiến. Thay vì chỉ là một căn cứ cố định để triển khai lực lượng, Guam ngày càng được nhìn nhận như một nút trong mạng lưới phân tán, nơi có thể nhanh chóng phân bổ năng lực khắp khu vực khi có khủng hoảng.
Chuyển dịch này xuất phát từ những bài học xương máu qua nhiều thập kỉ phân tích. Việc tập trung lực lượng và năng lực tạo ra điểm yếu, đặc biệt trong kỉ nguyên vũ khí tấn công chính xác. Bằng cách phân tán năng lực trên không gian địa lí rộng hơn, nhấn mạnh tính cơ động và tái định vị nhanh, cùng xây dựng hạ tầng hỗ trợ hoạt động phân tán, Mĩ trở thành mục tiêu khó đánh bại hơn đồng thời tăng khả năng phản ứng linh hoạt.
Hùng Cao giải thích rằng mục tiêu không chỉ dừng ở Guam mà mở rộng ra toàn quần đảo Mariana, giúp gia tăng đáng kể diện tích khả dụng cho cái mà ông gọi là “trung tâm bảo vệ và triển khai lực lượng” hoặc “khu vực giao chiến phân tán”.
Việc bổ sung quần đảo Bắc Mariana sẽ tăng diện tích đất liền thêm hơn 80%. Guam hiện có diện tích khoảng 212 dặm vuông, trong khi Bắc Mariana (bao gồm Saipan, Tinian, Rota…) có tổng diện tích khoảng 179 dặm vuông.
Không gian hoạt động mở rộng này mang lại nhiều lợi thế: làm phức tạp hóa việc nhắm mục tiêu của đối phương, tạo dư thừa năng lực quan trọng, cho phép hoạt động từ các hướng bất ngờ và tăng chiều sâu hậu cần.
Guam nằm ở trung tâm của sự chuyển dịch này, không phải là một mục tiêu đơn lẻ mà là trung tâm điều phối trong một mạng lưới phân tán rộng lớn hơn. Cơ sở hạ tầng mạnh, vị trí chiến lược và khả năng hậu cần sẵn có khiến Guam trở nên vô giá để hỗ trợ các hoạt động phân tán khắp khu vực, nhưng giá trị của nó không nằm ở việc tập trung mọi thứ vào một chỗ, mà ở khả năng hỗ trợ hoạt động ở mọi nơi khác.
Sự thay đổi vai trò của Guam và hợp tác hàng hải Mĩ-Việt không phải là những diễn biến riêng lẻ mà là một phần của sự tái cấu trúc lớn hơn trong kiến trúc an ninh Thái Bình Dương. Các chuyến thăm Guam và Việt Nam của Cao chỉ trong vài tuần đầu nhậm chức đã củng cố năng lực Mĩ trong khu vực. Quan trọng hơn, chúng thể hiện cam kết rõ ràng lấy đồng minh và đối tác làm nền tảng chiến lược.
Cách tiếp cận lấy liên minh làm trung tâm phản ảnh một thực tế căn bản: Mĩ không thể đơn phương bảo đảm an ninh Thái Bình Dương. Khu vực quá rộng, thách thức quá đa dạng, nguồn lực cần thiết quá lớn để một quốc gia đơn độc gánh vác. Nhưng Mĩ không hành động một mình. Mĩ được hưởng lợi từ mạng lưới đồng minh và đối tác vô song, nhiều trong số đó cùng chia sẻ mối lo ngại về cưỡng ép, xâm lược và sự xói mòn trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.
Sự chuyển đổi của Việt Nam từ đối thủ thành đối tác là một trong những thay đổi đáng chú ý nhất trong mạng lưới này. Quan hệ vẫn được cân chỉnh cẩn thận, cả hai bên đều ý thức về những nhạy cảm lịch sử và chánh trị nội bộ. Nhưng xu hướng là không thể nhầm lẫn: Những lo ngại chung về hành vi hung hãn trên biển của Tàu, lợi ích chung về thương mại tự do và tuyến hàng hải mở, cùng góc nhìn chiến lược bổ trợ đã tạo ra nền tảng thực sự.
Mĩ có thêm một đối tác với kiến thức địa phương, vị trí địa lí gần và vị thế khu vực chánh đáng. Việt Nam nhận được tiếp cận năng lực tiên tiến, kinh nghiệm vận hành và giá trị răn đe ngầm từ quan hệ đối tác Mĩ.
Mô hình này lặp lại khắp khu vực: Phi Luật Tân tái khởi động liên minh, mở thêm căn cứ; Úc cam kết tích hợp quốc phòng chưa từng có; Nhật Bản mở rộng năng lực và hợp tác tác chiến; Nam Hàn duy trì cam kết liên minh căn bản.
Tứ giác chiến lược năm 2013 giờ đã trở thành một mạng lưới chồng lấn phức tạp và bền vững hơn, phân tán cả năng lực lẫn cam kết chiến lược trên nhiều quốc gia và địa điểm.
Biểu tượng và chiến lược
Việc Hùng Cao nhanh chóng đến Guam và Việt Nam ngay trong những tuần đầu nhậm chức thể hiện sự hòa quyện giữa biểu tượng và chiến lược trong chánh sách quốc phòng đương đại.
Câu chuyện cá nhân của ông gây tiếng vang lớn trong khu vực, đặc biệt tại Việt Nam, nơi sự hiện diện của ông truyền tải thông điệp tôn trọng, đối tác và khả năng chuyển đổi.
Nhưng biểu tượng thôi thì không đủ, cần chánh sách thực chất hậu thuẫn. Việc chuyển giao tàu tuần duyên, mở rộng không gian hoạt động tại quần đảo Mariana, nhấn mạnh hoạt động phân tán, đó là những biểu hiện cụ thể của cam kết chiến lược.
Sự chuyển đổi chánh sách Mĩ ở Thái Bình Dương phản ảnh động lực thay đổi của khu vực. Sự thống trị thoải mái thời hậu Chiến tranh Lạnh đã nhường chỗ cho cạnh tranh chiến lược thực sự.
Sự trỗi dậy của Tàu cộng, dù đánh giá thế nào về quĩ đạo cuối cùng, đã tạo ra những thách thức mới đòi hỏi phản ứng mới.
Các khái niệm hoạt động phân tán, xây dựng năng lực liên minh, tập trung vào hiện diện và giao tiếp thay vì can thiệp từng đợt, tất cả đều là sự thích nghi với môi trường đã thay đổi.
Với những ai còn nhớ ngày Sài Gòn sụp đổ năm 1975, hình ảnh Hùng Cao đứng tại Hà Nội 50 năm sau với tư cách quan chức quốc phòng cấp cao của Mĩ không thể không gợi lên những suy tư sâu sắc về sự thay đổi của thế giới.
Sự chuyển đổi quan hệ Mĩ-Việt từ xung đột đẫm máu thành quan hệ đối tác an ninh là một trong những thay đổi đáng kể nhứt trong quan hệ quốc tế hiện đại. Và việc quan hệ đối tác này giờ tập trung vào an ninh hàng hải và chống cưỡng ép lại thêm một tầng ý nghĩa lịch sử và logic chiến lược.
Thái Bình Dương vẫn như nó vốn là: rộng lớn, đa dạng, sống còn về kinh tế và cực kì quan trọng về chiến lược. Cách Mĩ tương tác với khu vực này sẽ định hình an ninh toàn cầu trong nhiều thập niên tới.
Việc Thứ trưởng Hùng Cao ngay từ đầu tập trung vào Guam và Việt Nam cho thấy sự tương tác này sẽ dựa trên cả chủ nghĩa hiện thực chiến lược lẫn sự trân trọng đối với sự phức tạp của khu vực.
Hành trình cá nhân của ông từ người tị nạn đến lãnh đạo quốc phòng thêm chiều sâu con người vào những mệnh lệnh chiến lược, nhắc nhở chúng ta rằng chánh sách cuối cùng được tạo ra bởi những con người có trải nghiệm định hình sự hiểu biết của họ về những gì đang bị đe dọa.
Khi khái niệm hoạt động phân tán thành hiện thực, quan hệ đối tác liên minh sâu sắc hơn và hợp tác an ninh hàng hải với Việt Nam mở rộng, khung an ninh Thái Bình Dương tiếp tục tiến hóa. Sự tiến hóa này không được định trước hay bảo đảm thành công, nhưng nó thể hiện nỗ lực nghiêm túc nhằm điều chỉnh chiến lược Mĩ với thực tế đương đại trong khi duy trì cam kết cốt lõi với đồng minh, đối tác và nguyên tắc thương mại hàng hải tự do, mở, nền tảng cho sự thịnh vượng Thái Bình Dương qua nhiều thế hệ.
Trong sự chuyển dịch này, Guam đứng ở trung tâm không phải như một điểm cố định mà như một nút động trong mạng lưới linh hoạt, giống như chính Thứ trưởng Hùng Cao, người mà sự nghiệp là hiện thân của sự giao thoa giữa lịch sử cá nhân và nhu cầu chiến lược xác định kỉ nguyên mới trong an ninh Thái Bình Dương.
_______
Ghi chú
[1] Bản gốc: https://defense.info/.../from-saigon-to-the-pentagon-hung...
[2] Bản dịch bài báo "From Saigon to the Pentagon: Hung Cao’s Journey and the Transformation of Pacific Defense" có sự giúp đỡ của chatGPT nhưng tôi biên tập cho giống văn Việt Nam hơn bản dịch.
Robbin Laird là biên tập viên Defense.info. Edward Timperlake tốt nghiệp Học viện Hải quân Mĩ năm 1969, nhận 2 ngôi sao chiến dịch từ chiến tranh Việt Nam và từng là chỉ huy phi đoàn VMFA-321.
https://www.facebook.com/share/1CwG368iR9/
Không có nhận xét nào