Hong Thai Hoang
24/11/2025
Năm 2018 đã có hơn 800 dự án thuỷ điện được phê duyệt, với khoảng 385 dự án đã đi vào hoạt động..
____
Các dự án thuỷ điện ở Việt Nam không phải tất cả là công trình nhà nước. Hệ thống thuỷ điện Việt Nam hiện nay gồm 3 nhóm:
( A ). Thuỷ điện nhà nước (EVN sở hữu và vận hành)
Bao gồm các dự án lớn, chiến lược:
• Hòa Bình
• Sơn La
• Lai Châu
• Ialy
• Trị An
• Thác Bà
Tiền đầu tư là ngân sách + vốn vay nhà nước + trái phiếu chính phủ → Đây là tài sản công, sử dụng tiền thuế và nợ quốc gia.
___
(B) Thuỷ điện tư nhân / cổ phần hoá / BOT
Đây mới là nhóm chiếm số lượng áp đảo.
Từ năm 2000 trở lại đây, Việt Nam khuyến khích xã hội hoá thuỷ điện, nên phần lớn hơn 800 dự án được phê duyệt là thuộc:
• Doanh nghiệp tư nhân
• Doanh nghiệp cổ phần
• Các tập đoàn lớn (Vingroup từng có, Bitexco, Đạt Phương…)
• BOT (xây dựng – vận hành – chuyển giao)
Nhà nước không bỏ tiền.
Doanh nghiệp hưởng lợi nhuận.
Nhưng điều kỳ lạ là: dù là tư nhân vận hành – nếu xả lũ gây chết người thì họ hiếm khi bị xử lý hình sự.
(C) Thuỷ điện địa phương (nhỏ & vừa)
Nhiều dự án ở Tây Nguyên, miền Trung:
• Công suất 2–30 MW
• Chủ yếu tư nhân
• Dùng để bán điện cho EVN
Nhóm này phá rừng, gây thay đổi dòng chảy, và chịu trách nhiệm lớn nhất trong các vụ lũ quét và “xả lũ bất thình lình”.
_____
800 dự án thuỷ điện là phần lớn LÀ TƯ NHÂN, nhưng dân vẫn phải gánh hậu quả NHƯ CÔNG TRÌNH NHÀ NƯỚC và dân phải chịu rất nhiều thiệt thòi.
I. ĐỀN BÙ – GIẢI TỎA – THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY THỦY ĐIỆN
1. Nhà nước THU HỒI ĐẤT của người dân
(Theo Luật Đất đai – Điều 70 và Điều 62).
Lý do thu hồi được gắn nhãn là:
• “dự án vì lợi ích quốc gia, công cộng”,
• “phát triển năng lượng”,
• “an ninh – quốc phòng”,
• “phát triển kinh tế – xã hội”.
Kể cả dự án là tư nhân đầu tư,
thì Nhà nước vẫn thu hồi đất giúp doanh nghiệp.
2. Nhà nước đứng ra ĐÈN BÙ cho dân
Dựa theo:
• giá đất do UBND tỉnh quy định (thường thấp hơn thị trường 5–20 lần);
• hỗ trợ tái định cư “khi có điều kiện”.
Người dân gần như không có quyền thương lượng giá.
Doanh nghiệp TƯ NHÂN hưởng lợi, nhưng quyền lực cưỡng chế lại do Nhà nước thực hiện.
3. Doanh nghiệp (chủ đầu tư thủy điện) trả tiền bồi thường cho Nhà nước, không trả trực tiếp cho dân
Quy trình:
- Nhà nước thu hồi đất → ép buộc cư dân phải giao đất
- Nhà nước áp giá đền bù theo khung
- Doanh nghiệp nộp tiền lại cho Nhà nước
- Người dân nhận phần rất thấp
⟶ Người dân bị “chia tay” khỏi tài sản của mình bằng hai lần bất bình đẳng: giá thấp và không có quyền đàm phán
4. Người dân mất trắng quyền sử dụng đất, mất sinh kế, mất rừng, mất nguồn nước sinh hoạt
Nhưng:
• Không được chia cổ phần
• Không được hưởng lợi nhuận
• Không có “quỹ cộng đồng” như quốc tế
• Không được bảo hiểm thiên tai
• Không được bồi thường khi xả lũ làm hỏng mùa màng
• Không được bồi thường khi đập xả gây chết người
⟶ Điều này tạo ra một mô hình bất công triệt để.
II. THỰC TẾ ĐỀN BÙ THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM
(Đây là dữ liệu từ nhiều dự án thủy điện trên thực tế)
1. Giá đền bù cực thấp
• Nhiều nơi: 25.000 – 150.000/m²
• Trong khi giá thị trường: 2 – 20 triệu/m²
• Dân không được tự định giá
• Không được thuê đơn vị định giá độc lập
2. Tái định cư chất lượng thấp
Được báo chí gọi là “khu tái định cư 30 năm vẫn chưa xong”:
• đất cằn
• không đủ nước
• không có trường – y tế
• lúa không trồng được
• nhà xuống cấp sau vài năm
⟶ Dân bị nghèo hóa sau dự án.
3. Xả lũ – dân lãnh đủ – không ai chịu trách nhiệm
Từ 1999 đến nay:
• hàng trăm người chết
• hàng nghìn nhà bị cuốn trôi
• hàng chục nghìn ha lúa bị mất trắng
• doanh nghiệp thủy điện: “đúng quy trình”
Nhà nước: “khắc phục hậu quả”
Doanh nghiệp: không bồi thường
⟶ Lợi nhuận tư nhân – hậu quả công cộng.
_______
Còn ở nhiều quốc gia, người dân không chỉ được đền bù — họ còn được chia lợi ích từ thủy điện.
Đó gọi là “Benefit sharing” – chia sẻ lợi ích từ dự án thủy điện cho cộng đồng bị ảnh hưởng.
Bao gồm:
1) Đền bù – tái định cư theo giá thị trường
• Không áp “giá nhà nước”.
• Không cưỡng ép.
• Không có trò “đền bù vài chục triệu, bán lại đất cho doanh nghiệp vài tỷ”.
2) Chia lợi nhuận cho dân — bằng tiền mặt hoặc quỹ phát triển
Ở Canada, Na Uy, Thụy Điển, Pháp, Úc, New Zealand:
• Người dân địa phương được hưởng 1–5% lợi nhuận của thủy điện mỗi năm
hoặc
• Được cấp quỹ cộng đồng (community fund) để phát triển y tế, trường học, đường sá.
Canada: người dân bản địa gần đập được chia cổ phần trong công ty thủy điện.
Na Uy: phần lớn thủy điện thuộc sở hữu cộng đồng địa phương và công ty công ích, nên dân hưởng lợi trực tiếp qua phúc lợi và thuế quay lại.
Úc – New Zealand: dân gần đập nhận khoản bồi hoàn hằng năm (annual compensation).
Vì vậy, khi công trình có lãi, dân cũng có lợi.
Các quốc gia đó lại chia lợi nhuận cho dân vì dân là người chịu rủi ro ngập đất, mất sinh kế, di dời, nguy cơ lũ, xả đập, mất môi trường sống, mất rừng
Ở các nước phát triển, nguyên tắc là:
“No one should be poorer because of a national project.”
(Không ai được nghèo đi bởi một dự án quốc gia.)
Như vậy bạn đã thấy ở Vn Mô hình đền bù – trả lãi cho dân không hề tồn tại.
• Đền bù thấp, ép giá
• Không chia lợi nhuận
• Không có quỹ cộng đồng
• Người dân mất đất, mất sinh kế → bị bỏ mặc
• Khi thủy điện xả lũ → dân chịu thiệt hại, doanh nghiệp không phải bồi thường
• Báo chí không dám nói đến “trách nhiệm hình sự”
Đồng thời:
Lợi nhuận thủy điện → vào túi doanh nghiệp, không quay lại cho dân.
Dân chỉ có:
• Lũ bất ngờ
• Xả đập không báo
• Nhà cửa bị cuốn trôi
• Livestream cảnh báo thì bị đe dọa
• Báo chí bảo phải “khắc phục”, không dám nói “xử lý”.
_____
Ai sẽ đứng về phía nhân dân trong một mô hình mà lợi ích thuộc về doanh nghiệp – còn rủi ro thuộc về người dân?
Hong Thai Hoang
Bài viết được thực hiện trong nhiều tiếng và những dòng nước mắt không ngưng chảy - Mong các bạn copy hãy thương cho một ngòi bút - hãy ghi nguồn.
https://www.facebook.com/share/16iGEZUWCc/
Không có nhận xét nào